Cách chuyển đoạn hay nhất trong văn nghị luận Văn học Chuyển đoạn bằng phép lặp từ khóa quan trọng - Cách làm: Lặp lại từ khóa hoặc ý quan trọng từ đoạn trước để tạo sự liên kết mạch lạc giữa các đoạn. - Tác dụng: + Nhấn mạnh luận điểm chính, giúp người đọc dễ theo dõi. + Tạo cảm giác liên tục, tránh đứt gãy trong lập luận. Ví dụ: (Phân tích vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong “Tây Tiến” – Quang Dũng) "Vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến không chỉ thể hiện qua ngoại hình oai hùng mà còn ánh lên trong tâm hồn lãng mạn, hào hoa. Dù phải đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt, họ vẫn mang trong mình một trái tim tràn đầy cảm xúc nghệ sĩ. Nhưng liệu rằng chất lãng mạn ấy có làm mờ đi hiện thực tàn khốc của chiến tranh? Không! Chính trong khói lửa chiến tranh, vẻ đẹp bi tráng của họ càng rực sáng, đặc biệt là khi đối diện với cái chết." - Phân tích: + Từ khóa "vẻ đẹp bi tráng" được lặp lại để duy trì tính nhất quán của lập luận. + Câu cuối đoạn trước dẫn dắt sang ý mới (sự đối lập giữa lý tưởng hào hoa và hiện thực chiến tranh). 2. Chuyển đoạn bằng câu hỏi tu từ Cách làm: Sử dụng câu hỏi để gợi mở vấn đề tiếp theo. Tác dụng: + Tạo sự tương tác với người đọc, kích thích tư duy phản biện. + Tạo nhịp điệu linh hoạt, giúp bài viết sinh động hơn. Ví dụ: (Phân tích tư tưởng nhân đạo trong “Chí Phèo” – Nam Cao) "Tư tưởng nhân đạo trong Chí Phèo không chỉ thể hiện qua sự cảm thông với số phận người nông dân mà còn nằm trong khát khao đổi đời của họ. Chí Phèo, từ một kẻ bị xã hội ruồng bỏ, vẫn nuôi hy vọng được làm người lương thiện. Nhưng liệu xã hội có cho hắn con đường trở về? Liệu Chí Phèo có thể thoát khỏi vòng xoáy tha hóa mà làng Vũ Đại đã bủa vây hắn?" -Phân tích: + Hai câu hỏi tu từ dẫn dắt người đọc vào mâu thuẫn giữa khát vọng và hiện thực xã hội. + Tăng tính hấp dẫn, giúp bài văn không bị liệt kê khô khan. 3. Chuyển đoạn bằng phép đối lập – so sánh tương phản Cách làm: Dùng sự tương phản giữa hai nội dung để tạo liên kết giữa các đoạn. Tác dụng: + Nhấn mạnh sự đối lập giữa các khía cạnh của vấn đề, làm nổi bật tư tưởng tác phẩm. + Giúp lập luận sắc bén hơn, thể hiện tư duy phản biện của học sinh giỏi. Ví dụ: (Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong “Việt Bắc” – Tố Hữu) "Bức tranh tứ bình trong Việt Bắc không chỉ đơn thuần là vẻ đẹp thiên nhiên, mà còn là biểu tượng của sự hòa quyện giữa con người và quê hương kháng chiến. Cảnh xuân tươi tắn với "hoa mơ nở trắng rừng" đã mở ra một không gian yên bình, thơ mộng. Nhưng nếu mùa xuân là sự khởi đầu của hy vọng, thì mùa đông lại khắc sâu nỗi nhớ trong lòng người ra đi. "Nhớ gì như nhớ người yêu" – nỗi nhớ ấy không còn là hoài niệm về thiên nhiên, mà đã hóa thành tình cảm sâu nặng với cách mạng, với nhân dân." Phân tích: + Đối lập giữa mùa xuân tươi sáng và mùa đông trầm lắng để làm rõ sự chuyển biến cảm xúc của nhân vật trữ tình. + Tạo mạch dẫn tự nhiên từ phân tích cảnh thiên nhiên sang cảm xúc con người. 4. Chuyển đoạn bằng liên từ hoặc cụm từ chuyển ý Cách làm: Sử dụng các từ nối như “bên cạnh đó”, “không chỉ vậy”, “tuy nhiên”,… để tạo sự chuyển tiếp mượt mà. Tác dụng: + Tạo nhịp điệu mạch lạc, dễ đọc. + Giúp các đoạn văn có tính liên kết logic chặt chẽ. Ví dụ: (Phân tích giá trị hiện thực trong “Vợ nhặt” – Kim Lân) "Kim Lân không chỉ tái hiện nạn đói khủng khiếp năm 1945 bằng những hình ảnh đầy ám ảnh, mà còn khắc họa chân thực bi kịch con người trong thời loạn lạc. Nhân vật Tràng – một gã trai nghèo khổ – lại có thể "nhặt" được vợ chỉ bằng mấy bát bánh đúc rẻ tiền. Tuy nhiên, giữa bức tranh ảm đạm của đói khát, tác giả vẫn để lại những tia sáng của hy vọng. Sự xuất hiện của người vợ nhặt không chỉ là minh chứng cho thực trạng bi thương, mà còn gợi lên niềm tin về tình người và sự hồi sinh trong những ngày đen tối nhất." Phân tích: - Cụm từ "Tuy nhiên" giúp chuyển từ hiện thực khắc nghiệt sang yếu tố nhân văn. - Làm cho bài phân tích không bị đơn điệu mà có sự cân bằng giữa hai khía cạnh. 5. Chuyển đoạn bằng hình ảnh biểu tượng Cách làm: Dùng một hình ảnh mang tính biểu tượng để chuyển ý một cách tinh tế. Tác dụng: + Tạo sự liên tưởng nghệ thuật, giúp bài viết giàu chất văn chương hơn. + Phù hợp với những bài nghị luận văn học có thiên hướng cảm thụ cao. Ví dụ: (Phân tích hình ảnh “bát cháo cám” trong “Vợ nhặt” – Kim Lân) "Bát cháo cám – thứ lương thực nghèo nàn, đắng chát – không chỉ là biểu tượng của cái đói, mà còn gói ghém cả nỗi xót xa và tình thương của người mẹ. Hạnh phúc của Tràng và người vợ nhặt mở đầu bằng một bữa cơm đạm bạc, nhưng đằng sau đó là cả sự chắt chiu và hy vọng. Và chính trong cái đói nghèo tận cùng ấy, một tín hiệu của sự đổi thay đã xuất hiện. Hình ảnh “lá cờ đỏ sao vàng” thấp thoáng cuối truyện như một lời báo hiệu: dù bát cháo cám có đắng chát đến đâu, thì ngày mai vẫn sẽ có một con đường khác cho những con người nghèo khổ." Phân tích: + Hình ảnh "bát cháo cám" là điểm tựa để chuyển sang phân tích "lá cờ đỏ sao vàng" – biểu tượng của niềm tin và cách mạng. + Cách chuyển đoạn này tạo sự liên kết ý theo dòng cảm xúc, giúp bài viết giàu chất văn học.
Phân tích không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật ta còn thấy được cái nhìn thế giới của nhà thơ. Đó chính là tính quan niệm về nghệ thuật trong sáng tác của mỗi người nhà văn, nhà thơ. Qua bài thơ “Cây trám chua”, ta thấy được một quan niệm nghệ thuật của Tòng Văn Hân được ẩn sâu dưới tầng không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật. Người con của mảnh đất Điện Biên anh hùng nhìn thế giới bằng một đôi mắt của hoài niệm để “phục dựng” những vẻ đẹp khôi nguyên của hương sắc bản mường. Từ đó kết lại thành bức tranh thơ sáng lên vẻ đẹp của mường bản yêu thương, lung linh vẻ đẹp của tính cách, tâm hồn con người nơi xứ sở. Thơ nói về cây trám chua, nhưng sâu xa hơn chính là nói về quê hương, về tình yêu làng bản, về cái đẹp của tình người, tình người chân chất, mộc mạc, đơn sơ, nhưng sắt son bền chặt bởi vì được bắt rễ nơi tấm lòng sâu thẳm: “Quả trám nhọn hai đầu Nhân bùi trong vỏ cứng Như tình yêu chúng mình Chẳng sâu nào cắn nổi.” Phân tích không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong sáng tác của Tòng Văn Hân càng làm nổi bật phong vị thơ mang đậm âm hưởng dân gian trong lối diễn đạt rất gần gũi bằng ngôn ngữ của dân tộc Thái. Nhà thơ đã thả trái tim mình vào thơ với bao nhiêu cảm xúc tự nhiên, hồn hậu, chân thành. Hơn nữa, Tòng Văn Hân đã mang tới cho thơ cái thật, cái chân, như chính phẩm chất tâm hồn của họ - chân thật đến vô cùng. Và bạn đọc cũng sẽ thấy trong thơ cái cách cảm, cách nghĩ rất riêng, thể hiện ra trong ngôn ngữ thơ rất giàu hình ảnh, đầy sức gợi cảm, tự nhiên mà rất đỗi tinh tế, tài hoa, cái tài hoa của người dân tộc Thái. Trên đất nước Việt Nam yêu dấu của chúng ta có tới hơn 54 dân tộc anh em cùng chung sống. Chúng ta đang xây dựng một nền văn học nghệ thuật đa dân tộc, giàu bản sắc để không đánh mất mình trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ ngày nay. Chúng ta muốn hội nhập với thế giới, phải có cái gì là “của ta” để “nhập” với thế giới, không để “chìm”, để “tan” trong thế giới. Chính vì vậy mà việc gìn giữ bản sắc của mỗi dân dân tộc Việt Nam ta là vô cùng cần thiết trong bối cảnh xã hội hiện nay. “Cây trám chua” như một tiếng lòng nói với thế hệ sau về ý thức giữ gìn bản sắc quê hương, truyền thống dân tộc: “Hỡi những người con đất Việt, đừng bao giờ lãng quên nguồn cội”. Nó thật đúng với ý thơ rất sâu sắc dưới đây của nhà thơ Tòng Văn Hân: “Quả trám chua cho lòng người ngọt Quả trám chát cho lòng người thơm Lá trám toả cho lòng người bản ta gắn kết Cây trám vút cao để người đi biết nhớ đường về…” Có lẽ chính nhờ lịch sử bi tráng của quê hương Điện Biên đã hun đúc nên trong tâm hồn nhà thơ Tòng Văn Hân ý thức mãnh liệt về truyền thống dân tộc tự hào: tình yêu quê hương đất nước mà trên hết đó là niềm tự hào kiêu hãnh về những người con anh dũng đã chiến đấu, hy sinh cho quê hương xứ xở, cho Tổ Quốc muôn đời. Kết luận Việc phân tích không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong bài thơ “Cây trám chua” đã giúp tôi khám phá một phong vị thơ mang đậm âm hưởng dân gian trong lối diễn đạt rất gần gũi với ngôn ngữ dân tộc Thái của Tòng Văn Hân. Đó là hồn thơ đằm thắm, thiết tha của một người con khi viết về Điện Biên Phủ - nơi biên cương đã đi vào lịch sử, là miền đất sinh thành và còn lưu giữ được bao nét đẹp nguyên sơ của văn hóa bản mường. Ông là nhà thơ có giọng điệu và tiếng nói từ sâu thẳm trong tâm hồn của một người con yêu quê hương, xứ sở. Đọc thơ ông ta thấy được hơi thở bản sắc dân tộc Thái thấm đẫm trong từng câu chữ. Chính những điều này đã giúp nhà thơ tạo ra cho mình một phong cách riêng không trộn lẫn và hơn hết là tạo dựng nên được một thế giới nghệ thuật độc đáo trong thơ Tòng Văn Hân. Đến với thơ Tòng Văn Hân, người đọc không thể không bị cuốn hút vào vòng xoáy của những câu thơ miên man say đắm và những tứ thơ độc đáo bất ngờ. Nhà thơ đóng vai nhân vật người kể chuyện và kể cho ta nghe câu chuyện gắn với hình ảnh những cây trám chua – một loại quả đặc trưng của quê hương ông. Câu chuyện bằng thơ ấy thật hấp dẫn, sinh động khiến người đọc phải say sưa với nó. Từ đó ta càng thêm mến yêu những người con của núi rừng đã sống một cuộc đời bình dị và sáng trong, cao thượng và mạnh mẽ. Nguồn: Ths Trần Thị Thu Hiền Đọc tiếp: Không gian thời gian nghệ thuật trong Cây trám chua phần 1
Quan niệm nghệ thuật của Tòng Văn Hân qua “Cây trám chua” Xâu chuỗi những kí hiệu miêu tả không gian và thời gian nghệ thuật trong bài thơ “Cây trám chua”, ta có thể hình dung trước mắt là hình ảnh của một không gian của bản mường, núi rừng Tây Bắc với cuộc sống vô cùng yên bình. Ở đó, con người sống với nhau chan hòa, họ “Mộc mạc như cây trên núi trên rừng”, “Cũng đơn giản như hình thù quả trám” và “rắn rỏi như hạt trám mà thôi”. Cấu trúc không gian nghệ thuật trong bài thơ là cấu trúc đi từ điểm nhìn quá khứ cho tới hiện tại và hướng tới tương lai. Như vậy bao trùm cả bài thơ “Cây trám chua” với 25 dòng thơ ngắn gọn mà chứa đựng trong đó là cả một tình yêu quê hương tha thiết. Tìm hiểu bài thơ ta không chỉ thấy ở nó chất thơ mà còn là những kỉ niệm thời ấu thơ của Tòng Văn Hân gắn bó với hình ảnh những cây trám. Tuy nhiên, cho dù là không gian, thời gian về quá khứ, hiện tại hay tương lai thì “Cây trám chua” vẫn chứa đựng chung một nguồn cảm hứng. Đó là cảm hứng về cội nguồn, không gian cuộc sống, không gian văn hoá. Tòng Văn Hân đã vẽ lên một bức tranh sinh động, vô cùng gần gũi, thân thương từ không gian miền núi Tây Bắc. Với thể thơ tự do, câu thơ phóng khoáng, lối thơ trùng điệp giàu chất tự sự - trữ tình, “Cây trám chua” như một câu chuyện kể đầy hấp dẫn của tác giả Tòng Văn Hân. Nếu phẩm chất cao nhất của thơ là tính hình tượng và tính biểu cảm, thì thơ Tòng Văn Hân có đầy đủ phẩm chất đó. Trong thơ ông tràn đầy những hình ảnh so sánh rất sinh động, gợi cảm, mang dấu ấn của một tư duy thẩm mĩ độc đáo: “Chúng mình lớn theo từng mùa hoa trám Mộc mạc như cây trên núi trên rừng Cũng đơn giản như hình thù quả trám Và rắn rỏi như hạt trám mà thôi” Tính yêu đôi lứa vút lên trong chiều sâu của một tứ thơ rất đậm tính nhân văn: “Quả trám nhọn hai đầu Nhân bùi trong vỏ cứng Như tình yêu chúng mình Chẳng sâu nào cắn nổi.” Với lối thơ trùng điệp, giàu hình ảnh theo cách cảm, cách nghĩ của người Thái. Tòng Văn Hân đã đưa người đọc đến những không gian và thời gian của những vẻ đẹp khôi nguyên của hương sắc bản mường. Ông đã mang tới cho người đọc biết bao cái hay, cái lạ, cái đẹp của quê hương đổi mới, cái đẹp của tình lứa đôi chung thủy. Nó đã trở thành một nét đẹp, nét thơ riêng biệt trong thơ Tòng Văn Hân. Nguồn: Ths Trần Thị Thu Hiền Đọc tiếp: Không gian thời gian nghệ thuật trong Cây trám chua phần 5
Thời gian của hoài niệm, tương lai Hai bình diện không gian và thời gian nghệ thuật được coi là quan trọng nhất đối với cấu tạo thế giới nghệ thuật. Hai yếu tố này không chỉ gắn bó với nhau mà còn hòa trộn thành chỉnh thể: Không gian là phương tiện biểu hiện thời gian và ngược lại. Như vậy, cùng với hai không gian nghệ thuật: Không gian quá khứ và không gian hiện tại – tương lai thì trong bài thơ “Cây trám chua” ta cũng có cặp thời gian tương tự: Thời gian quá khứ và Thời gian hiện tại – tương lai. Thời gian của quá khứ hiện lên với những kỉ niệm thời thơ ấu của tác giả. Đó là “Những ngày chăn trâu trên núi/ Ớt muối xuýt xoa cay/Môi hồng nước mắt chảy”. Thời gian trong bài thơ đã được nhà thơ dồn nén, cô đọng để thể hiện những cái gì hay nhất, tinh túy nhất. Đó chính là tính hư cấu – một đặc trưng nghệ thuật của thời gian nghệ thuật. Khổ đầu nhà thơ kể về cây trám từ thời ông còn chưa sinh ra, và “cây trám đầu bản/ Mởn xanh bốn mùa”. Tới khổ hai thì cây trám đó đã “thành cây cổ thụ” còn “chúng mình vừa sinh”. Thời gian cứ thế tiếp tục trôi đi, tới khổ sáu, thời gian của hiện tại và tương lai hiện lên rõ nét, nhà thơ đã trưởng thành, còn cây trám vẫn ở đó “Lá trám tỏa cho lòng người bản ta gắn kết/ Cây trám vút cao để người đi biết nhớ đường về”. Ta thấy ở đây có một dòng chảy ngầm của sự sống. Con người từ khi sinh ra đến khi rời khỏi cõi trần đều luôn hướng về quê hương, bản mường. Đó là lí do mà không gian nguồn cội luôn khắc khoải trong thơ Tòng Văn Hân nói riêng và thơ các dân tộc thiểu số nói chùng. Nguồn: Ths Trần Thị Thu Hiền Đọc tiếp: Không gian thời gian nghệ thuật trong Cây trám chua phần 4
Nội dung Không gian của nguồn cội bản mường Đọc “Cây trám chua” của Tòng Văn Hân, gồm 6 khổ thơ, ta thấy hình ảnh miêu tả không gian và thời gian bao trùm toàn bài thơ là hình ảnh cây trám: Cây trám đầu bản (Khổ 1); Trám thành cây cổ thụ (Khổ 2); Chúng mình lớn theo từng mùa hoa trám; Cũng đơn giản như hình thù quả trám (Khổ 3); Quả trám nhọn hai đầu (Khổ 5); Quả trám chua cho lòng người ngọt/ Quả trám chát cho lòng người thơm/ Lá trám toả cho lòng người bản ta gắn kết/ Cây trám vút cao để người đi biết nhớ đường về (Khổ 6). Bài thơ có sự xuất hiện của hai cặp không gian: Không gian quá khứ và không gian hiện tại – tương lai. Trong không gian quá khứ lại có không của bản mường và núi đồi. Trước hết, về không gian quá khứ trong “Cây trám chua”. Ở khổ thơ đầu tiên, Tòng Văn Hân đã dẫn dắt người đọc đi từ không gian bản mường thủa sơ khai của lịch sử con người. Khi mà sự sống của con người chưa sôi nổi trên Trái đất này thì cây trám đã có mặt và vị trí của nó được tác giả giới thiệu là “đầu bản”: “Sinh ra từ thủa Đất chưa chật tiếng chân Rừng chưa thưa tiếng thú Cây trám đầu bản Mởn xanh bốn mùa” Ở khổ thơ ba và khổ thơ bốn, ta còn thấy sự xuất hiện không gian của núi rừng - không gian nghệ thuật căn bản trong thơ các dân tộc thiểu số và miền núi: “Chúng mình lớn theo từng mùa hoa trám Mộc mạc như cây trên núi trên rừng … Những ngày chăn trâu trên núi Ớt muối xuýt xoa cay” Trong thơ các dân tộc thiểu số không gian miền núi luôn là cái nền của cảm xúc và bao giờ cũng chứa đựng cuộc sống con người. Cảm xúc chủ đạo trong thơ các dân tộc thiểu số là cảm xúc hướng về cội nguồn, không gian cuộc sống, không gian văn hoá của các dân tộc thiểu số. Tòng Văn Hân cũng tiếp thu cái nền đó để khơi gợi cảm xúc được nảy sinh từ hoài niệm về quá khứ thân thương gắn với hình ảnh cây trám đầu làng. Tiếp đó, ta tìm hiểu không gian của hiện tại và tương lai. Tuy vẫn là không gian của bản mường gắn với hình ảnh cây trám nhưng ở đây có một sự thay đổi trong chính nhà thơ. Nếu không gian trong quá khứ là những kỉ niệm với cây trám khi nhà thơ còn là một cậu bé “chăn trâu trên núi”, thì tới hai khổ thơ cuối nhà thơ đã trưởng thành và không gian bản mường càng được tô đậm bằng lời nhắn nhủ: “Cây trám vút cao để người đi biết nhớ đường về”. Đó là cảm xúc về những dự cảm về một ngày mai - một tương lai tươi sáng. Con người miền núi từ khi sinh ra đến khi trưởng thành, dù đi đâu về đâu vẫn luôn luôn nhớ về cội nguồn. Đó là “nơi chôn rau cắt rốn, là nơi tắm mình từ dòng nước đầu nguồn, là nơi nuôi mình từ củ sắn bắp ngô nứt ra từ hốc đá.” Khi lớn lên, ta rời xa quê hương đi kiếm sống, hình ảnh con đường cũng là một kí hiệu về không gian nghệ thuật. Con người ta khi bước ra khỏi làng có thể sẽ đối mặt với nhiều gian nguy, thử thách chứ không còn cuộc sống bình yên khi ở trong làng. Đây là một quan niệm về nghệ thuật: Cái đẹp, cái bình yên chỉ có trong làng, còn khi bước ra khỏi làng thì sẽ bị mất phương hướng. Tòng Văn Hân đã nói hộ mọi người cái lòng yêu mảnh đất quê hương Điện Biên. Cái tâm tình khiến con người ta dù đi đâu xa vẫn không quên nhớ về nguồn cội: “Quả trám chua cho lòng người ngọt Quả trám chát cho lòng người thơm Lá trám toả cho lòng người bản ta gắn kết Cây trám vút cao để người đi biết nhớ đường về.” Nguồn: Ths Trần Thị Thu Hiền Đọc tiếp: Không gian thời gian nghệ thuật trong Cây trám chua phần 3
TÓM TẮT: Phong vị thơ Tòng Văn Hân mang đậm âm hưởng dân gian trong lối diễn đạt rất gần gũi với ngôn ngữ của dân tộc Thái giúp nhà thơ tạo ra cho mình một phong cách riêng không trộn lẫn. Trong bài viết này, tôi nghiên cứu không gian, thời gian nghệ thuật trong bài thơ “Cây trám chua” để minh chứng cho thơ của Tòng Văn Hân đưa người đọc bay qua mọi giới hạn không gian và thời gian để đến với những vẻ đẹp khôi nguyên của hương sắc bản mường. Từ khoá: không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, Tòng Văn Hân Đặt vấn đề Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật là hai bình diện quan trọng nhất đối với cấu tạo thế giới nghệ thuật. Hai yếu tố này không chỉ gắn bó với nhau mà còn hòa trộn thành chỉnh thể. Phân tích thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật sẽ giúp ta khám phá được thế giới nghệ thuật chìm dưới lớp ngôn từ để từ đó bước vào một thế giới sống động chỉ có trong tác phẩm và trong tưởng tượng nghệ thuật. Tòng Văn Hân được biết tới với tư cách là nhà thơ. Những sáng tác của ông mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Thái và được đánh giá là một đóa hoa đẹp góp vào vườn hoa văn học của đất nước nói chung, vườn hoa văn học của các dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng. Trong đó, bài thơ “Cây trám chua” đã để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tôi. Tôi thật may mắn khi được sinh ra và lớn lên tại mảnh đất Điện Biên Phủ anh hùng. Tại đây, tôi được thừa hưởng một nền văn hóa giàu bàn sắc dân tộc từ các dân tộc cùng sinh sống. Trong đó nổi bật nhất là dân tộc Thái - một dân tộc có chữ viết từ rất sớm, một dân tộc được sinh thành, nuôi dưỡng bởi thiên nhiên hùng vĩ, nên thơ và trong cái nôi văn hóa riêng với bao phong tục tập quán đặc sắc của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, từ ngày xưa cho đến bây giờ. Đặc biệt, đường lối chính sách văn nghệ của Đảng hiện nay đã được cụ thể hóa trong việc quan tâm tới hoạt động sáng tác của các nhà văn, nhà thơ người dân tộc thiểu số. Do vậy, việc lựa chọn đi vào phân tích không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong “Cây trám chua” sẽ phần nào giúp tôi có được những cảm nhận mới mẻ về hồn thơ Tòng Văn Hân. Đồng thời, ta thấy được những đóng góp của các sáng tác mang tên của nhà thơ Tòng Văn Hân cho vườn hoa văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nguồn: Ths Trần Thị Thu Hiền Đọc tiếp: Không gian thời gian nghệ thuật trong Cây trám chua phần 2
"Tôi là người nghĩa là một kẻ chiến đấu" - Goethe đã nói như vậy gợi nhắc mỗi chúng ta đến bản chất kiên cường, dũng cảm của con người trong cuộc sống - nơi thực sự là một trường tranh đấu, nơi mà mỗi cá nhân phải không ngừng đấu tranh, không chỉ với ngoại cảnh mà còn với chính bản thân mình. Trước hết, ta hiểu đấu tranh tức là quá trình hoặc hành động đối đầu, vượt qua những khó khăn, thách thức để đạt được mục tiêu của bản thân, nó thể hiện ở sự nỗ lực, kiên định của con người trong con đường mình lựa chọn. Chúng ta có thể nhận ra rằng trái đất là một trường chiến đấu vô cùng to lớn và khắc nghiệt, ở mọi nơi, ở mọi loài, sự đấu tranh tiêu diệt lẫn nhau để sinh tồn là lẽ tự nhiên, cá lớn nuốt cá bé, chúa sơn lâm ăn thịt những loài non yếu, tất cả các sinh vật phải luôn lo âu, cảnh giác, tránh đụng chạm đề có một cuộc sống bình yên, đế không trở thành một con mồi ngon cho những loài khác. Vậy tranh đấu có ý nghĩa gì với cuộc đời mỗi chúng ta? Tranh đấu giúp chúng ta trưởng thành và phát triển bản thân. Mỗi lần vượt qua một thử thách, chúng ta không chỉ đạt được mục tiêu mà còn học hỏi thêm nhiều bài học quý giá. Những lần vấp ngã, thất bại giúp chúng ta rèn luyện sự kiên nhẫn, bền bỉ và quyết tâm. Bởi vậy, tranh đấu là quá trình tự hoàn thiện, giúp con người trở nên mạnh mẽ và vững vàng hơn trước mọi khó khăn của cuộc sống. Tranh đấu cũng là cách để ta khẳng định bản thân và tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình. Khi đối mặt với những trắc trở, chúng ta không chỉ chiến đấu vì bản thân mà còn vì những người thân yêu, vì cộng đồng. Những cuộc đấu tranh ấy giúp chúng ta nhận ra sức mạnh nội tại, khám phá ra những khả năng tiềm ẩn mà trước đây ta chưa từng biết đến. Hãy nhớ đến Thomas Edison - người phát minh ra bóng đèn đã thất bại hàng ngàn lần trước khi thành công. Ông đã chiến đấu không ngừng nghỉ, và chính nhờ sự kiên trì, ông đã mang lại ánh sáng cho toàn thế giới. Nhưng cũng có những người lại luôn đi ngược lại với điều đó, họ không có ý chí, hèn nhát, thấy khó đã nản, điều ấy thật đáng trách, và chính họ cũng tự lãng phí đi khả năng và cơ hội của mình. Cuộc sống hiện đại với nhiều áp lực và thách thức cũng đòi hỏi mỗi chúng ta phải không ngừng đấu tranh. Đấu tranh để giữ vững những giá trị đạo đức, để không bị cuốn vào vòng xoáy của sự gian dối, đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của bản thân, để không bị xã hội làm lu mờ những giá trị cá nhân. Mỗi người chúng ta đều có những cuộc chiến riêng, và chính những cuộc chiến ấy mới làm nên giá trị thực sự của cuộc sống.
Trong thi phẩm “Phố ta”, Lưu Quang Vũ từng viết những dòng đầy chiêm nghiệm: Nếu cuộc đời này toàn chuyện xấu xa Tại sao cây táo lại nở hoa Sao rãnh nước trong veo đến thế? Có lẽ giữa cuộc đời với biết bao những ngổn ngang, trăn trở, đầy những so tính, thiệt hơn thì vẫn luôn còn đó là những tiếng chim hót chào ngày mới, những cơn mưa hối hả ngày hè, những câu chào nồng hậu, từng nụ cười thơ ngây và muôn vàn điều khác luôn tồn tại. Đó chính là những điều tốt đẹp vẫn luôn hiển hiện, để mỗi chúng ta có được sự lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống. Và cũng chính sự lạc quan ấy sẽ là chìa khóa để ta được sống vui, sống hạnh phúc, để ta luôn thấy “cây táo lại nở hoa”, thấy “rãnh nước trong veo đến thế”. Đó là sức mạnh của tinh thần lạc quan với mỗi người. Trước hết, có thể hiểu tinh thần lạc quan là một trạng thái tinh thần tích cực giúp con người nhìn nhận cuộc sống từ những khía cạnh tích cực trong mọi tình huống. Đó không chỉ đơn giản là một thái độ, tinh thần lạc quan mà còn là một lối sống, một triết lý giúp con người vượt qua khó khăn, tận dụng cơ hội và đạt được thành công trong cuộc đời. Trong bối cảnh xã hội hiện đại, nơi mà con người ngày ngày phải đối diện với biết bao thử thách và áp lực của trong nhịp xoay chuyển không ngừng của cuộc sống, thì tinh thần lạc quan trở nên càng quan trọng hơn bao giờ hết đối với đời sống vật chất cũng như tinh thần của mỗi người. Có thể thấy rõ, nhiều nghiên cứu khoa học đã chỉ ra người có tinh thần lạc quan thường ít bị căng thẳng, trầm cảm và lo âu hơn. Họ có khả năng phục hồi nhanh chóng sau những cú sốc tinh thần và sống một cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc. Bên cạnh đó, lạc quan còn giúp tăng cường hệ miễn dịch, giảm nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch và kéo dài tuổi thọ. Điều này cho thấy, lạc quan không chỉ mang lại lợi ích về mặt tinh thần mà còn có ảnh hưởng tích cực đến sức khỏe tổng thể của con người. Tiếp đó, ta thấy tinh thần lạc quan là nguồn sức mạnh tinh thần giúp chúng ta đối mặt và vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Khi gặp khó khăn, người lạc quan thường có xu hướng tìm ra những giải pháp tích cực và không dễ dàng bị khuất phục, thay vì chìm đắm trong lo âu và tuyệt vọng, họ nhìn nhận vấn đề một cách khách quan và tìm cách khắc phục. Họ không sợ thất bại mà coi đó là cơ hội để học hỏi và trưởng thành. Sự tự tin và quyết tâm này giúp họ vượt qua mọi trở ngại và đạt được những thành tựu đáng kể. Người có trong mình sự lạc quan, luôn cầu tiến sẽ biết nhìn nhận ra những cơ hội trong khó khăn, sẽ nhìn ra nơi ánh sáng ngập tràn trong đường hầm tăm tối, sẽ hiểu rằng khó khăn và thành công chính là bàn đạp nối đuôi nhau đưa họ tới những mục tiêu của mình. Cũng chính bởi vì vậy, lạc quan như một bệ đỡ trong tinh thần, giúp họ vượt qua những khó khăn, thử thách. Bàn về điều này, ta không thể không nhắc tới Helen Keller – nhà văn, nhà hoạt động xã hội mù điếc người Mỹ. Tuy sống trong thế giới không ánh sáng âm thanh nhưng Keller vẫn là người phụ nữ tràn đầy tinh thần lạc quan, thiết tha yêu cuộc sống. Bà đã tới hơn 70 bệnh viện để an ủi bệnh nhân, động viên họ và trong suốt cuộc đời mình và tin rằng: “Lạc quan là niềm tin dẫn tới thành tựu. Bạn chẳng thể làm được điều gì mà thiếu đi hy vọng và sự tự tin.”. Helen Keller chỉ là một trong số rất nhiều những tấm gương tiêu biểu ngoài kia về lòng yêu cuộc sống, sự lạc quan trong cuộc sống Tuy vậy, vẫn có một số người luôn ủ rũ, bi quan, họ mất niềm tin vào cuộc sống. Cũng bởi vậy mà họ sống tẻ nhạt, luôn u sầu vì không tìm được những điều tốt đẹp vẫn luôn hiện hữu trong cuộc sống. Họ tin rằng cuộc sống chỉ toàn là màu xám xịt mà không biết rằng vốn dĩ sắc xám cũng là một gam màu cần có trong bức tranh tổng thể đa màu của cuộc sống. Duy trì một lối sống như vậy sẽ thật đáng tiếc! Cuộc sống bên cạnh những đêm bão giông là những ngày ngập nắng, không có cơn mưa nào là mãi mãi và cũng chẳng có tia nắng nào là trường tồn, cuộc sống có tốt đẹp, có những cơ hội hay không phụ thuộc vào tinh thần lạc quan, phụ thuộc vào lăng kính mà bạn lựa chọn để nhìn thế giới này. Hãy luôn mỉm cười trước những khó khăn, hãy tận hưởng trọn vẹn phút giây hạnh phúc, “Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ khuất sau lưng bạn” (Walt Whitman)
Em hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ bàn về ý kiến của Steve Godier “Lòng nhân ái là biểu hiện cao đẹp nhất của con người”. Lòng nhân ái, theo quan điểm của Steve Godier, đó là biểu hiện cao đẹp nhất của con người. Trong xã hội ngày nay, sự nuôi dưỡng và phát triển lòng nhân ái ngày càng trở nên quan trọng. Nhân ái không chỉ đơn thuần là sự yêu thương, mà còn là trao đi tình cảm vô điều kiện, không vụ lợi cá nhân. Đó chính là cầu nối gắn kết tâm hồn, làm cho những người xa lạ có thể gần nhau hơn. Từ thời xa xưa, lòng nhân ái đã là nền tảng quan trọng của truyền thống văn hóa. Câu "lá lành đùm lá rách" hay "Thương người như thể thương thân" là những bài học quý giá được lưu truyền đời đời và luôn giữ nguyên giá trị. Trong chiến tranh, tình yêu thương đã trở thành động lực mạnh mẽ, giúp dân tộc vượt qua những thử thách khó khăn. Ngày nay, lòng nhân ái vẫn cần thiết khi chúng ta đối mặt với những thách thức của cuộc sống. Mỗi năm bão lũ đi qua đã để lại bao mất mát và tổn thất cho nhiều gia đình, nhờ tấm lòng nhân ái mà đã vơi đi những nỗi mất mát ấy để giúp họ trở lại cuộc sống bình thường. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những thái độ vô cảm, ích kỉ, chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân. Cần lên án những hành động lợi dụng lòng tốt để đạt được mục đích cá nhân. Bằng cách hỗ trợ nhau, chúng ta có thể xây dựng một xã hội đầy lòng nhân ái, nơi mà mọi người sống yêu thương và chia sẻ, làm cho tâm hồn mỗi người trở nên phong phú và đẹp đẽ hơn.
Lý thuyết Xưng hô trong hội thoại Tiếng Việt có một hệ thống từ ngữ xưng hô rất tinh tế, phong phú và giàu sắc thái biểu cảm Người nói cần căn cứ vào đối tượng và các đặc điểm khác của tình huống giao tiếp để xưng hô cho thích hợp. (Người nói phải hết sức chú ý) Từ ngữ xưng hô trong Tiếng Việt rất phong phú, có các đại từ nhân xưng (tôi, chúng tôi, chúng ta…) Tiếng Việt còn sử dụng các danh từ chỉ quan hệ họ hàng, ruột thịt (bố, mẹ, anh, chị, cô, dì, ...); các danh từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ (sếp, thủ trưởng, bác sĩ, giáo viên, ...); và cả tên riêng để xưng hô Biết lựa chọn từ ngữ xưng hô một cách thích hợp để thể hiện một cách văn hóa, lịch sự. Vi dụ: Chúng ta là những người bạn tốt
Liên kết câu và liên kết đoạn văn Lý thuyết Các câu trong đoạn văn cũng như đoạn văn trong một văn bản phải liên kết chặt chẽ với nhau về nội dung và hình thức - Liên kết nội dung bao gồm + Liên kết chủ đề: các câu phải hướng tới chủ đề chung của đoạn văn, các đoạn văn phải hướng tới chủ đề chung của văn bản + Liên kết logic: Các câu, các đoạn văn phải được sắp xếp hợp lý, phù hợp với trình tự triển khai chủ đề của đoạn văn, của văn bản - Liên kết hình thức + Phép lặp từ ngữ: lặp lại ở câu đứng sau từ ngữ đã có ở câu trước đó Ví dụ: Trời xanh thăm thẳm, biển cũng xanh thăm thẳm như dâng cao, chắc nịch. Trời rải mây trắng nhạt, biển mơ màng dịu hơi sương. Trời âm u mây mưa, biển xám xịtt nặng nề. Trời ầm ầm dông gió, biển đục ngầu giậ n dữ. (Vũ Tú Nam) + Phép thế: sử dụng ở câu đứng sau từ ngữ có tác dụng thay thế từ ngữ đã có ở câu trước đó Ví dụ: Tên trộm lẻn vào nhà ăn cắp, tôi phát hiện ra, hắn đã chạy. + Phép nối: sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ biểu thị quan hệ với câu trước đó Ví dụ: Bác Hồ đã dạy cán bộ phải liêm chính, chí công, vô tư nhưng vẫn có nhiều cán bộ không thực hiện được điều đó. + Phép trái nghĩa, đồng nghĩa và liên tưởng: Sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ trái nghĩa, đồng nghĩa hoặc cùng trường liên tưởng với từ ngữ đã có ở câu trước. Ví dụ: “Tôi là cô gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tố n, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dài, tương đối mềm, một cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Còn mắt tôi thì anh lái xe bảo: “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm” (Lê Minh Khuê) Lưu ý: - Liên kết câu và liên kết đoạn cùng sư dụng phương tiện liên kết (phép lặp, phép thế, phép nối, phép liên tưởng…) - Tất cả các phương tiện liên kết phải nằm ở các câu khác nhau, nếu nội tại trong câu thì không phải là phép liên kết - Đối với liên kết đoạn, ngoài việc sử dụng từ ngữ liên kết còn sử dụng câu liên kết. Câu dùng để liên kết gọi là câu nối. Câu nói thường được viết như sau: + Như chúng ta đã biết…sau đây… + Ở trên…phần tiếp theo… + Trên đây…dưới đây… + Trở lên trên…còn phần sau đây
Giải thích nhan đề bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Nhan đề bài thơ dài nhưng độc đáo, ấn tượng, viết về đề tài người mẹ. - Khúc hát ru: là một âm hưởng quen thuộc gợi ngọt ngào sâu lắng trong tâm hồn bạn đọc. Khúc hát gợi lên sự dịu êm của tình mẹ. - Hình ảnh những em bé lớn trên lưng mẹ rất thực (gợi ra hình ảnh những bà mẹ vùng cao các dân tộc thiểu số thường địu con khi lao động hay làm bất cứ việc gì) gợi ý nghĩa sâu xa, lớn lao về sự vĩ đại của người mẹ. Từ đó, ca ngợi người mẹ miền núi nói riêng và người mẹ Việt Nam nói chung, bình dị nhưng vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống chống Mĩ cứu nước.
Chỉ ra những từ láy được sử dụng trong khổ thơ và cho biết tác dụng của các từ láy này trong việc thể hiện mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình? Ngửa mặt lên nhìn mặt có cái gì rưng rưng chư là đồng là bể như là sông là rừng... Trăng cứ tròn vành vạnh kể chi người vô tình ánh trăng im phăng phắc đủ cho ta giật mình. Các từ láy: rưng rưng, phăng phắc, vành vạnh. - Tác dụng: + “Rưng rưng”: gợi cảm xúc nghẹn ngào, muốn khóc mà không thể khóc, diễn tả tâm trạng con người khi đối diện với trăng. + “Vành vạnh”: gợi tả dáng vẻ tròn đều và đầy đặn, biểu tượng cho sự trọn vẹn, thủy chung quá khứ nghĩa tình của thiên nhiên + “Phăng phắc”: nhấn mạn h trạng thái im lặng đến mức không có một tiếng động dù là nhỏ nhất, gợi liên tưởng đến cái nhìn bao dung, độ lượng mà nghiêm khắc của trăng - người bạn thủy chung, tri kỉ và quá khứ ân tình. - Tác giả: nhìn nhận sự việc sâu sắc, từ câu chuyện riêng nâng lên thành triết lý trong cuộc sống: Chúng ta cần biết trân trọng quá khứ và người cùng bên mình khi gian khổ, khó khăn. Đoạn thơ thuộc hình thức độc thoại nội tâm vì: đây là những lời tâm sự trong lòng tác giả, không đượ c phát ra thành lời - Tác dụng: cho thấy những day dứt, trăn trở của người thi nhân khi đối mặt với vầng trăng. Nhận ra sự bội bạc của mình với quá khứ thủy chung và tình nghĩa.
Hình ảnh trăng trong bài thơ Ánh trăng Hình ảnh trăng xuyên suốt bài thơ mang ý nghĩa như thế nào? Vì sao khổ cuối nhà thơ lại sử dụng ánh trăng chứ không phải vầng trăng? Cách thay đổi hình ảnh trong thơ như vậy còn được bắt gặp trong bài thơ nào? Của ai? - Ý nghĩa của hình ảnh trăng xuyên suốt bài thơ mang ý nghĩa rất sâu sắc: + Là biểu tượng cho thiên nhiên quê hương đất nước hồn nhiên tươi mát và bình yên + Là người bạn (đồng đội, đồng bào) luôn đồng hành chia sẻ khi gian nan, thử thách + Là quá khứ nghĩa tình vẹn nguyê n không thay đổi + Là nhân chứng lịch sử vừa nghiêm khắc nhưng bao dung, độ lượng Khổ cuối sử dụng "ánh trăng" chứ không phải "vầng trăng" để nhấn mạnh vào ánh sáng tỏa ra từ vầng trăng có khả năng soi rọi vào tâm hồn người, khiến con người thức tỉnh... - Cách thay đổi hình ảnh như vậy em còn bắt gặp: Bếp Lửa –Bằng Việt (bếp lửa- ngọn lửa)
Song góc nhớ thương đó không làm cho người lính mềm lòng, nhụt chí mà nó còn thôi thúc, động viên người lính vững chí, cầm chắc tay súng để dành lại tự do cho dân tộc. Tình cảm đồng chí, đồng đội đặc biệt thể hiện ở tinh thần vượt khó, vượt khổ trong những câu thơ tiếp theo: Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn ta y. Địa bàn chiến đấu của người lính thời kì lúc bấy giờ ở nơi rừng thiêng nước độc, địa hình hiểm trở, cùng với sự thiếu thốn về vật chất. Những câu thơ miêu tả hiện thực đời sống người lính và nghệ thuật sóng đôi đã khắc họa tới từng chi tiết khó khăn, gian khổ, đói rét, bệnh tật hoành hành. Có những người lính đã phải bỏ mạng nơi rừng thiêng nước độc bởi cơn sốt rét hành hạ mà không có một viên thuốc bên mình. Gian khổ là vậy, các anh đói, rét, chân không giày, đầu không mũ, áo phong phanh, quần rách, đêm nằm trên lá khô và chịu những cơn ớn lạnh của núi rừng Việt Bắc. Mặc dù vậy, nhưng các anh vẫn nở nụ cười trong buốt giá, nụ cười như cất lên tiếng ngợi ca tình đồng chí xoa đi cái lạnh giá của mùa đông, cái gian khổ trong kháng chiến chống Pháp. Viết lên những dòng thơ này, Chính Hữu không phải định kể khổ để làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi quan mà để ngợi ca người lính: họ biết đồng cam cộng khổ: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Câu thơ nhẹ nhàng, giản dị, đậm chất lính. Hai tiếng “Thương nhau” đặt lên đầu câu khiến nhịp thơ như lắng lại. Trong “thương” không chỉ có tình yêu mà còn có cả sự xót xa, cảm thông cho nhau. Chính trong tâm thế đó, những người lính tìm đến nhau trong cái nắm tay tình nghĩa. Đó là cái nắm tay thắm thiết, thân mật, siết chặt tình đồng chí keo sơn, truyền cho nhau hơi ấm để giúp đồng đội vượt qua sự giá lạnh nơi núi rừng cũng là cái nắm tay truyền ý chí chiến đấu, truyền ngọn lửa cách mạng. Cái bắt tay âm thầm lặng lẽ không ồn ào, không cần lời hoa mĩ, họ trao nhau hơi ấm từ lòng bàn tay, từ trái tim, vì họ đã hiểu rõ lòng nhau, vì họ “thương nhau”. Hơi ấm lan tỏa cả hai người, khiến họ nở một nụ cười, dù là “buốt giá”. Chính nhà thơ Chính Hữu từng tâm sự: “Tất cả những gian khổ của người lính trong giai đoạn này thật khó kể hết nhưng chúng tôi vẫn vượt lên được nhờ sự gắn bó tiếp sức của tình đồng đội trong quân ngũ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nhớ lại tình đồng đội năm xưa, lòng tôi vẫn còn xúc động bồi hồi”. Cuộc chiến đấu trường kỳ, ác liệt, gian khổ là thế, bộ đội ta chỉ có tình đồng chí đồng đội, sự đồng cảm giai cấp là nền tảng, là cơ sở duy nhất để tồn tại, tiếp sức cho nhau tiếp tục chiến đấu hướng đến thắng lợi cuối cùng Ba câu thơ tiếp theo cũng là câu kết thúc bài thơ đã khắc họa một bức chân dung của người lính trong đêm canh gác ở rừng. Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. Hai câu thơ đầu là hình ảnh thực của người lính trên chiến hào truy kích giặc, câu thơ đã thể hiện tình đồng chí được tôi luyện trong thử thách và gian lao với phông nền “rừng hoang sướng muối” đầy khắc nghiệt của thiên nhiên. Hình ảnh đôi bạn chiến đấu "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới" tạo nên tư thế vững chãi nương tựa vào nhau. Song giữa họ còn có người bạn thứ ba đồng hàn h trong những đêm phục kích, đó là trăng. Hình ảnh trăng bát ngát, chông chênh trên nền trời, rồi trăng cứ xuống thấp dần soi sáng tình đồng chí của người lính và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm như thế, vầng trăng đối với người lính như một người bạn tri kỉ. Suốt bài thơ là bút pháp tả thực nhưng đến câu kết hiện thực đã pha chút lãng mạn, thơ mộng giữa cảnh vật và tâm hồn. Tâm hồn người lính không khô khan trước chiến tranh khốc liệt mà vẫn thấy rung động trước vẻ đẹp của cuộc sống, của thiên nhiên. Vì thế, súng và trăng, thực và mộng, thi sĩ và chiến sĩ đã hòa quyện tạo nên nét đẹp thơ mộng, tạo nên tình đồng chí cao đẹp, thiêng liêng giữa cuộc chiến đấu đầy gian khổ. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa tượng trưng. “Súng” là biểu tưởng cho lửa đạn chiến tranh, cho sự khốc liệt mà con người không muốn nghĩ đến. Còn “trăng” biểu tượng thiên nhiên cho sự hòa bình mà con người luôn khao khát. “Đầu súng trăng treo” là một trong những hình ảnh thơ độc đáo, bất ngờ và hay nhất là điểm nhấn cho đoạn thơ, là điểm sáng cho toàn bài thơ. Ba câu thơ cuối là bức tranh đẹp về tình đồng chí của người lính, là biểu tượng đẹp đẽ giàu chất thơ về cuộc đời người chiến sĩ trong gian đoạn kháng chiến đầy gian khổ. Kết bài: Hình tượng người lính trong tác phẩm hiện lên qua bài thơ thật giản dị, chân thực và giàu sức biểu cảm. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ tự nhiên, bình dị, những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ trở nên mộc mạc, thi vị, đi thẳng đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó với những câu văn sóng đôi, những hình ảnh biểu trưng, ngòi bút hiện thực lãng mạn của ông đã tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí, đồng đội. Lịch sử chiến tranh đã đi vào dĩ vãng nhưng bài thơ về tình đồng chí có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai và mãi mãi về sau. Đọc tiếp: Phân tích bài thơ Đồng chí phần 1
Mở bài: - Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm - Giới thiệu vấn đề nghị luận Hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp là đề tài được nhiều thi nhân và văn nhân quan tâm. Đó là những anh hùng áo vải, sẵn sàng hi sinh tính mạng cho sự nghiệp của Tổ quốc. Trong những thi nhân đó ta phải kể đến nhà thơ Chính Hữu với tác phẩm nổi tiếng là Đồng Chí. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất về đề tài người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc Thân bài: Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu được sáng tác vào đầu năm 1948 - thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra vô cùng ác liệt. Mở đầu bài thơ tác giả sử dụng ngôn ngữ giản dị để giới thiệu về xuất thân của người lính, họ hiện lên là những người có chung hoàn cảnh vất vả, khó khăn. Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Tôi với anh đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn que n nhau Chính Hữu tuy không chỉ đích danh, quê quán nơi cư trú từng người, song ta bắt gặp thành ngữ quen thuộc “nước mặn đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá” thể hiện rõ nhất xuất thân của người lính, câu thơ cũng giống như lời giãi bày tâm sự. Họ là những người đến từ mọi miền tổ quốc từ đồng bằng ven biển ngập mặn cho đến vùng trung du miền núi với đất đá khô cằn. Quê hương xa cách nhau mỗi người một nơi nhưng cùng chung một cái nghèo, cái lam lũ, khó nhọc của người dân thời kháng chiến. Những nét tương đồng đó đã khiến họ từ xa lạ đã gắn kết, xích lại gần nhau, họ đã trở thành bạn bè thân thiết và cùng hàng ngũ cách mạng có chung lí tưởng. Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí! Câu thơ “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” được tác giả sử dụng điệp từ và hoán dụ đã diển tả đầy đủ và trọn vẹn sự gắn bó của những người lính trong quân ngũ. Hình ảnh “súng bên súng” đã diễn tả những người lính có cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ cách mạng vì sự nghiệp giải phóng cho quê hương, dất nước. Còn hình ảnh “đầu bên đầu” là cách nói hoán dụ tượng trưng cho sự gắn bó, kề vai sát cánh, sống chết có nhau. Khi màn đêm buông xuống cái rét của đêm rừng Việt Bắc đã cho thấy sự sẻ chia, đồng cảm của tình đồng đội, họ cùng đắp một tấm chăn mỏng để xoa đi cái lạnh buốt giá, cái khó khăn, gian khổ của núi rừng. Tấm chăn mỏng đã sưởi ấm tinh bạn, tình đồng chí và họ đã trở thành tri kỉ. Đồng chí! Một câu kết thúc đoạn rất đặc biệt cùng với dấu chấm cảm như một lời khẳng định tình đồng chí thật thiêng liêng và cao quí. Và tất cả sự sẻ chia, đặc biệt ấy là cơ sở cho tình đồng đội, đồng chí của toàn bài thơ, đồng thời nó có sức vang dội và ngân nga mãi trong lòng người đọc. Những câu thơ tiếp theo tác giả đã tiếp tục mở ra những biểu hiện cụ thể và cảm động về tình đồng chí giữa những người lính trong hoàn cảnh khó khăn của chiến tranh, từ đồng cảnh họ thành đồng cảm. “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính. Nếu chiến tranh không xảy ra thì họ vẫn là nhũng người nông dân “chân lấm tay bùn” nhưng khi đất nước bị xâm lăng, tinh thần dân tộc thôi thúc, họ lên đường theo tiếng gọi của non sông và họ đã trở thành người cách mạng. Ruộng nương, nhà cửa gửi lại hậu phương là những người bạn ở nhà. Hình ảnh “gian nhà không mặc kệ gió lung lay” gây xúc động đến nao lòng. Nhà trống, không tài sản, xiêu vẹo bởi gió lung lay gợi ra hoàn cảnh nghèo khó đến tận cùng của người lính. Từ “mặc kệ” mộc mạc như cách nói của người dân quê chất phác vang lên, ẩn chứa một thái độ ra đi kiên quyết, mạnh mẽ, dứt khoát vào chốn sa trường vì họ hiểu rằng: nước nhà chưa yên, thì gia đình, cuộc sống ở chốn làng quê cũng không thể yên được. Bỏ lại chuyện riêng tư như người trí thức thành thị “xếp bút nghiên lên đường”, họ sẵn sàng ra đường hi sinh cho dân tộc. Họ lên đường vì nghĩa lớn nhưng quê hương luôn khiến họ trào dâng nỗi nhớ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Nói quê hương nhớ người lính là hình ảnh nhân hóa nhưng thực chất là người đi lính nhớ nhà, nhất là gốc đa, giếng nước, mái đình, nơi hò hẹn mỗi mùa trăng về, nơi chứng kiến cuộc chia ly buổi lên đường... những kỉ niệm ấy luôn neo đậu trong tâm tư và họ sẻ chia cho nhau, đồng cảm niềm vui, nỗi buồn. Đọc tiếp: Phân tích bài thơ Đồng chí phần 2
Thơ hiện đại Việt Nam STT Tên văn bản Tác giả Nội dung Nghệ thuật 1 Đồng chí (1948) Chính Hữu, tên khai sinh Trần Đình Đắc (1926-2007), quê ở huyện Can Lộc, Hà Tĩnh - 1947, ông bắt đầu sáng tác thơ và thơ ông chủ yếu viết về chiến tranh và người lính với ngôn ngữ cô đọng, cảm xúc dồn nén Thể hiện tình đồng chí cao đẹp của những người lính dựa trên cở sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu được thể hiện thât tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn cảnh. Góp phần tạo nên sức mạnh vè vẻ đẹp tinh thần người cách mạng. Những hình ảnh, chi tiết, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm. Biện pháp đối ngữ, sóng đôi được sử dụng rất thành công. 2 Bài thơ về tiểu đội xe không kính (1969) Phạm Tiến Duật (1941-2007), quê huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Thơ của ông thể hiện thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua hình tượng người lính Khắc họa nổii bật hình ảnh những người lính lái xe trên đường Trường Sơn thời kì chống Mĩ với tinh thần dũng cảm, tư thế hiên ngang và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam. Hình ảnh độc đáo, giọng điệu khỏe khoắn, tự nhiên. Kết hợp linh hoạt thể thơ 7 chữ và 8 chữ làm giọng thơ sinh động. 3 Đoàn thuyền đánh cá (1958) Huy Cận (1919- 2005) tên là Cù Huy Cận, quê Hà Tĩnh. Ông nổi tiếng trong phong trào thơ mới với tập "Lửa thiêng". Là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đạ i Việt Nam Bài thở là bức tranh rộng lớn, tráng lệ về thiên nhiên, vũ trụ và con người lao động trên biển cả. Nhà thơ bộc lộ cảm xúc, niềm vui, niềm tự hào trước cuộc sồng mới Nhiều hình ảnh sáng tạo và có sự liên tưởng, tưởng tượng Âm thanh khỏe khoắn, lạc quan 4 Bếp lửa (1963) Bằng Việt sinh năm 1941, quê ở Thạch Thất, Hà Tây. Thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ Những hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành về những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu. Qua đó, bộc lộ những tình cảm sâu nặng với gia đình, quê hương, đất nước -Biểu cảm kết hợp với tự sự, miêu tả và bình luận -Giọng điệu tâm tình, thiết tha, chân thành, tự nhiên. -Hình ảnh bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng 5 Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ (1971) Nguyễn Khoa Điềm sinh 1943, trong một gia đình trí thức cách mạng, quê xã Thủy An, thành phố Huế. Ông thuộc nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc Tình yêu thương con của người mẹ dân tộc Tà- ôi gắn liền với tinh yêu nước và tinh thần chiến đấu của người mẹ miền tây Thừa Thiên. -Giọng thơ tha thiết, ngọt ngào, trìu mến Bố cục được đan xe thơ và lời hát ru tạo khúc hát ru tâm tình, sâu lắng 6 Ánh trăng (1978) Nguyễn Duy tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh 1948, quê ở tỉnh Thanh Hóa. Ông là gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thờ i chống Mĩ cứu nước. Lời nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Nhắc nhở độc giả về thái độ sống “uống nước nhớ nguồn” Giọng điệu tự nhiên, tâm tình, hình ảnh giàu tính biểu cảm 7 Con cò (1962) Chế Lan Viên (1920-1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ, Quảng Trị nhưng lớn lên ở Bình Định. Ông là một trong những tên tuổi hàng đầu của nền thơ Việt Nam ở thế kỷ XX Bài thơ khai thác hình tượng con cò trong những lời hát ru, nhà thơ ca ngợi tinh mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với cuộc sống. Vận dụng ca dao vào bài thơ rất sáng tạo. Câu thơ mang tính cô đúc mang triết lí sâu sắc 8 Mùa xuân nho nhỏ (1980) Thanh Hải (1930-1980) tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở Phong Điền, Thừa Thiên - Huế. Ông hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống Pháp. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên, đất nước, thể hiện ước nguyện chân thành được góp mùa xuân nho nhỏ cua mình vào mùa xuân lớn của dân tộc Lời thơ trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca, nhiều hình ảnh đẹp giản dị, gợi cảm những so sánh và ẩn dụ sáng tạo. 9 Viếng lăng Bác (1976) Viễn Phương (1928-2005) tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang. Ông là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kỳ chống Mĩ cứu nước. Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của tác giả đối với Bác Hồ trong một lần từ miền Nam ra thăm lăng Bác Giọng thơ trang trọng và tha thiết nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp, gợi cảm, ngôn ngữ bình dị và cô đúc. 10 Sang thu (1977) Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh sinh năm 1942 ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Cảm nhận của nhà trước sự chuyển mình của thiên nhiên cuối hạ sang thu Thể thơ năm chữ giàu sắc thái trữ tình, tự sự. Sử dụng phép nhân hóa, ẩn dụ tăng sức gợi cảm cho bài thơ 11 Nói với con (sau 1975) Y Phương (1948-2022) tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân tộc Tày; quê ở Trùng Khánh, Cao Bằng Bài thơ thể hiện tình cảm ấm cúng gia đình, ca ngợi truyền hống quê hương, dân tộc, gợi nhắc tình cảm gắn bó và ý chí vươn lên trong cuộc sống. Ngôn ngữ mang sắc thái của người dân tộc vừa cụ thể, giàu hình ảnh, mang tính gợi cảm vừa giàu ý nghĩa sâu xa.
So sánh hình ánh trăng trong câu thơ “đầu súng trăng treo” của Chính Hữu với hình ảnh trăng trong câu thơ “trăng cứ tròn vành vạnh” của Nguyễn Duy. - Những nét giống nhau: + Đều là vẻ đẹp của thiên nhiên. + Gắn với hình tượng người lính trong kháng chiến, mang ý nghĩa biể u tượng (ẩn dụ) - Những nét khác nhau: + Hình ảnh “trăng treo” của Chính Hữu gợi mối liên tưởng đến giây phút bình yên nơi và hoang vắng nơi chiến trường, tượng trưng cho hòa bình mà con người đang khao khát trong tương lai; + “Trăng cứ tròn vành vạnh” của Nguyễn Duy mang biểu trưng cho sự tròn đầy, thủy chung, nghĩa tình và sự bất tiện không bao giờ đổi thay.
Dạy kèm Ngữ Văn tại nhà hiệu quả Dạy kèm ngữ văn tại nhà là hình thức giảng dạy và học tập nhữ văn được thực hiện tại nhà của học sinh. Đây là hình thức đon giản.tiện lợi và linh hoạt cho các học sinh giúp các em tập trung vào việc học tập một cách hiệu qảu và thuận tiện hơn. Trong dạy kèm ngữ văn tại nhà, giáo viên- gia sư sẽ đế n nhà học sinh để dạy và giải đáp thắc mắc các vấn đề liên quan đến Ngữ Văn, bao gồm cả Ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, kỹ năng đọc hiểu, viết luận, nghị luận và các dạng bài kiểm tra khác. Hình thức này thường đực các gia đình lựa chọn vì nó rất tiện lợi và thuận tiện. Thường thì dạy kèm Ngữ văn tại nhà được tiến hành theo các buổi cá nhân theo thời gian cụ thể và theo nhu cầu của học sinh. Tất cả đều hướng đến những phương pháp giảng dạy hiệu quả, chất lượng nhất để họ c sinh đạt được kết quả cao trong học tập và thi cử. Ưu điểm khi học Ngữ văn tại nhà 1. Học sinh có thể học tập theo tốc độ của mình mà không bị áp lực về thời gian. Giáo viên sẽ cung cấp cho học sinh các tài liệu và bài tập phù hợp với trình độ và nhu cầu của học sinh, giúp học sinh tiến bộ nhanh hơn. Dạy kèm ngữ văn tại nhà cũng giúp học sinh tập trung hơn và không bị phân tâm bởi những yếu tố khác trong lớp học chung. Học sinh sẽ không phải cạnh tranh với những học sinh khác để được giáo viên chú ý và giải đáp thắc mắc, giúp họ có thể tiếp thu kiến thức một cách tốt hơn. 3. Dạy kèm ngữ văn tại nhà còn giúp học sinh nâng cao kỹ năng tự học và tự quản lý thời gian. Học sinh sẽ phải tự chịu trách nhiệm về quá trình học tập của mình và tự giải quyết các khó khăn và thắc mắc, giúp họ trưởng thành và tự tin hơn trong việc học tập và đạt được thành công. 4. Dạy kèm ngữ văn tại nhà cũng giúp học sinh tạo mối quan hệ gần gũi và tin tưởng hơn với giáo viên của mình, giúp họ dễ dàng hơn trong việc hỏi đáp và trao đổi kiến thức Tóm lại, dạy kèm ngữ văn tại nhà là một hình thức học tập hiệu quả và tiện lợi cho các em học sinh. Tuy nhiên, để có kết quả tốt thì bạn cần tìm một giáo viên, gia sư có kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy. Đồng thời cá nhân người học phải tập trung, nỗ lực khi học Ngữ văn tại nhà.