Phương pháp học Ngữ Văn mới nhất hiện nay - học theo hướng phát triển tư duy năng lực - Không phải học thuộc lòng Đến với lớp học văn cô Hà Huyền để học theo phương pháp mới Trong thời đại hiện đại ngày nay, việc học Ngữ Văn không còn chỉ là việc thuần thục kiến thức lý thuyết hay việc ghi nhớ các bài thơ, văn bản mà còn là quá trình phát triển tư duy và năng lực sáng tạo của học sinh. Phương pháp học Ngữ Văn mới nhất hiện nay đặt trọng tâm vào việc khuyến khích học sinh suy nghĩ sáng tạo, phê phán, tư duy, thay vì chỉ đơn thuần học thuộc lòng như trước đây. Học theo hướng phát triển tư duy năng lực trong môn Ngữ Văn không chỉ giúp học sinh hiểu sâu hơn về nội dung văn học mà còn giúp họ phát triển khả năng phân tích, tự suy luận và đánh giá. Thay vì chỉ đọc hiểu và ghi nhớ, học sinh được khuyến khích suy nghĩ và tự đưa ra nhận xét, ý kiến riêng về tác phẩm mà họ đọc. Qua đó, họ sẽ học được cách tư duy logic, phân tích sâu vấn đề, và xây dựng quan điểm cá nhân một cách chặt chẽ hơn. Trong phương pháp học Ngữ Văn mới, việc không phải học thuộc lòng được coi là một yếu tố quan trọng. Thay vì nhớ trên lý thuyết, học sinh được khuyến khích tìm hiểu, nắm bắt ý nghĩa sâu xa của các tác phẩm văn học thông qua việc thảo luận, tranh luận và tự biểu đạt ý kiến. Họ được khuyến khích sử dụng kiến thức đã học để áp dụng vào thực tế, từ đó phát triển khả năng sáng tạo và tư duy linh hoạt. Để học theo phương pháp mới này, nhiều học sinh đã chọn đến với lớp học văn của cô Hà Huyền. Cô Hà Huyền không chỉ là một cô giáo giỏi với kiến thức sâu rộng về văn học mà còn là một người hướng dẫn tận tình, động viên học sinh phát triển khả năng sáng tạo và tư duy. Bằng cách tạo ra môi trường học tích cực, cô Hà Huyền đã giúp học sinh tự tin thể hiện quan điểm, phê phán và sáng tạo trong việc giải thích, trình bày ý kiến của mình. Nhờ phương pháp học Ngữ Văn mới này, học sinh không chỉ rèn luyện được kiến thức văn học mà còn phát triển được khả năng tư duy, sáng tạo và tự tin trong việc trình bày ý kiến. Điều này giúp họ trở thành những người trẻ tự tin, có khả năng phân tích sâu vấn đề và đưa ra những giải pháp sáng tạo trong cuộc sống. Phương pháp học Ngữ Văn mới hiện nay không chỉ là một cách tiếp cận giáo dục tiến bộ mà còn là cơ hội để học sinh phát triển toàn diện về tư duy và năng lực.
PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA KHÍ HẬU, SINH VẬT VÀ ĐẤT Điền nội dung thích hợp vào bảng Thảm thực vật Kiểu khí hậu Nhóm đất chính Đài nguyên Cận cực lục địa Đài nguyên Rừng lá kim Ôn đới lục địa lạnh Pốt-dôn Thảo nguyên Ôn đới lục địa nửa khô hạn Đen Cây bụi lá cứng cận nhiệt và rừng Cận nhiệt Địa Trung Hải Đỏ nâu Xavan Nhiệt đới lục địa Đỏ, nâu đỏ Rừng nhiệt đới ẩm Nhiệt đới gió mùa Đỏ vàng (feralit) Câu 2: Nhận xét mối quan hệ giữa khí hậu, thực vật và đất ở Việt Nam. Khí hậu thay đổi theo độ cao kéo theo sự phân bố theo đai cao của thực vật và đất: + Ở độ cao dưới 600 – 700mm: nhiệt độ cao > 20°C, lượng mưa từ 1.500 – 1.800mm, rừng rậm nhiệt đới gió mùa nửa rụng lá phát triển và đất đỏ vàng. + Lên độ cao 600 - 700m đến 1.600 – 1.700m: nhiệt độ giảm xuống còn 15 – 20°C, lượng mưa tăng lên > 2.000mm, phát triển rừng cận nhiệt ẩm thường xanh trên núi và đất mùn vàng đỏ trên núi. + Ở độ cao từ 1.600 – 1.700m đến 2.600m: nhiệt độ giảm xuống còn < 15°C, lượng mưa lớn > 2.000mm, phát triển rừng rêu cận nhiệt đới mưa mù và đất mùn thô trên núi.
Đất feralit Loại đất này có màu đỏ vàng và được gọi bằng nhiều tên khác nhau như: đất la-tê-rit, fralitic, đất feralit, đất alit, đất la-tô-sol, nhưng thuật ngữ feralit hay được dùng hơn cả. Đất này chiếm 1/5 diện tích các lục địa, phân bố trên những vùng rộng lớn của Nam Mỹ, Trung Phi, Đông Nam Á, Nam Á… Đất hình thành trong điều kiện nhiệt ẩm cao rất thuận lợi cho quá trình phong hóa và hình thàn h đất. Thảm thực vật phát triển mạnh. Rừng mọc rậm rạp, cổ nhiều loài ở nhiều tầng. Sinh khối thực vật trung bình trên 5000 tạ/ha vật chất hữu cơ khô, cung cấp một lượng vật chất hữu cơ lớn nhưng bị phân hủy ngay trong năm đầu khi chúng rơi xuống đất và sự hoạt động mạnh mẽ của vi sinh vật và động vật. Lượng mưa lớn của miền khí hậu nhiệt đới ẩm cũng tăng cường quá trình rửa trôi. Lớp vỏ phong hóa rất dày do điều kiện nhiệt ẩm thuận lợi cho quá trình phong hóa hóa học và sinh học. Quá trình fralit hóa diễn ra như sau: Các đá và khoáng, nhất là nhóm silicat bị phong hóa mạnh mẽ thành các khoáng thứ sinh. Một phần khoáng thứ sinh có thể tiếp tục bị phá hủy tạo nên các oxit sắt, nhôm, silic đơn giản. Cùng với sự phá hủy đó, các chất ba-dơ và một phần oxit silic cũng bị rửa trôi, làm cho tỉ lệ phần trăm của Fe(OH)3 và Al(OH)3 so với các chất khác trong đất tăng lênn. Quá trình tích lũy Fe và Al này được gọi là quá trình Feralit, quá trình này tạo nên các loại đất đỏ vàng miền nhiệt đới ẩm do hàm lượng sắt cao, phần lớn dưới dạng các oxit khác nhau. Đất feralit có những đặc điểm chính như: Có lượng khoáng nguyên sinh thấp; giàu hydroxit sắt, nhôm, mangan; có lượng khoáng sét kaolinit lớn; axit fun-vô-nic chiếm ưu thế trong các axit mùn. Đất feralit thích hợp với việc trồng các loại cây công nghiệp nhiệt đới như: cà phê, cao su, canhkina.... (Theo Địa lí tự nhiên đại cương, tập 3 – Nguyễn Kim Chương (chủ biên), NXB Sư phạm, H., 2004))
Nguồn gốc đất phèn Đất phèn là loại đất trong thành phần khoáng chứa nhiều sunfua (FeS, FeS2,) và sunfat sắt, nhôm (FeSO4, Fe2(SO4)3, Al2(SO4)3) gây chua rất mạnh làm ảnh hưởng tới năng suất cây trồng, nhất là lúa và hoa màu. Việt Nam là nước có diện tích đất phèn vào loại lớn nhất thế giới (khoảng 2 triệu ha), chủ yếu phân bố ở Đồng bằng sông Cửu Long: Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, ngoại thành TP Hồ Chí Minh và một số ở Đồng bằng sông Hồng. Do có diện tích lớn và gây ảnh hưởng mạnh đến năng suất cây trồng nên việc tìm hiểu nguồn gốc và tính chất của loại đất này để tiện cho việc cải tạo và sử dụng là rất cần thiết. Sự hình thành các vùng đất phèn phần lớn tập trung chủ yếu là vùng bờ biển nhiệt đới có rừng ngập mặn. Quá trình phèn hóa trải qua hai giai đoạn: + Giai đoạn tích lũy lưu huỳnh: các hợp chất hữu cơ chứa nhiều lưu huỳnh do xác thực vật (sú, vẹt, tràm...) bị phân hủy ở điều kiện yếm khí tạo nên các sunfua (chủ yếu là FeS2). + Giai đoạn oxy hóa các sunfua hình thành đất phèn xảy ra vào mùa khô. Mùa khô nhiệt độ cao, nắng gắt, không mưa làm cho đất bị khô hạn, quá trình oxy hóa diễn ra mạnh, các sunfua bị oxi hóa thành các sunfat và axit sunfuric. Axit này xâm nhập vào keo sét chứa nhôm, sắt tạo nên sunfat nhôm (phèn nhôm) hoặc sunfat sắt (phèn sắt). Để cải tạo và sử dụng tốt đất phèn hiện nay chúng ta dùng biện pháp tổng hợp: dùng thủy lợi dẫn nước ngọt vào rửa phèn kết hợp với dùng nước ém phèn trong mùa khô, lên liếp, dùng giống kháng chịu phèn, dùng vôi để khử chua... (Theo Địa lý trong trường học, tập 1 – Nguyễn Hữu Danh (chủ biên) và Địa lí tự nhiên đại cương, tập 3 – Nguyễn Kim Chương (chủ biên) ), NXB Sư phạm, H, 2004)
Dòng biển lớn nhất trong đại dương thế giới Dòng biển lớn nhất là dòng chảy quanh Châu Nam Cực. Đó là dòng nước lạnh. Hài lưu này chảy quanh Nam Cực theo chiều từ Tây sang Đông. Chiều rộng của nó thay đổi khoảng từ 200 đến 300 km. Phía trên mặt hải lưu này chảy với vận tốc trung bình dưới 1km/h. Nó nhào trộn một lượng nước rất lớn: 270 triệu m3/s ở đoạn cực Nam của châu Mĩ và bán đảo Nam Cực. Hải lưu khổng lồ này chảy được là nhờ sức đẩy của gió Tây ở Nam bán cầu. Những thủy thủ thường gọi là "gió gần thứ 40” vì những ngọn gió này thôi trong khoảng vĩ tuyến 40 – 50° Nam. Trong phần Địa Cầu này có rất ít đảo nhô lên trên mặt biển, vì thế những luồng gió này không gặp bất cứ trở ngại nào cả, chúng thôi với một sức mạnh dữ dội. Vùng này chính là nơi có những cơn bão biển tàn khốc, vô cùng nguy hiểm cho tàu thuyền qua lại. (Nguồn: Trái Đất này là của chúng mình – Lê Huy Hòa, NXB ĐHQG Hà Nội, 2001)
Nguyên nhân sinh ra các hải lưu. - Nguyên nhân chính quan trọng nhất là do gió. Các loại gió khá mạnh, ổn định (gió Tây ôn đới, gió Mậu dịch...) làm hình thành các dòng biển quan trọngg. Gió mùa cũng sinh ra các dòng đổi hướng theo mùa. Ngày nay, người ta phân biệt hải lưu gió (khi có gió tác động trực tiếp) và hải lưu trôi (khi không có gió tác động trực tiếp). – Các hải lưu còn sinh ra do sự chênh lệch về mật độ hay tỷ trọng của nước biển mà nguyên nhân sâu xa là sự khác biệt về nhiệ t độ và độ muối trong đại dương, khi đó nước sẽ từ nơi mặn chảy về nơi nhạt hơn và nước từ nơi có nhiệt độ cao chảy về nơi có nhiệt độ thấp... - Các hải lưu còn có thể được tạo thành do sự tích tụ nước gây nên bởi sự khác nhau về áp suất thủy tĩnh tại những nơi khác nhau của đại dương tại cùng một mực nước. Sự tích tụ nước có thể do sự biến thiên mực nước dưới tác dụng thổi dồn của gió hoặc có thể do các dòng nước sông chảy tới... Khi đó mặt nước ở nơi nước bị chuyển đi để tích tụ chỗ khác sẽ thấp hơn mặt nước xung quanh và để bù vào chỗ hạ thấp đó, nước ở nơi khác sẽ chuyển đến bổ sung, tạo thành dòng biển. (Theo Địa lí tự nhiên đại cương, tập 2 – Hoàng Ngọc Oanh (chủ biên), NXB Sư phạm, H, 2004.
Đi vào vùng sâu thẳm của đại dương - 10m: Trong những mét nước đầu tiên dưới bề mặt đại dương, ánh sáng, ôxy và khí cacbonic tràn đầy do tiếp xúc với khí quyển. Đây là vùng nuôi dưỡng của đại dương, nơi mà thực vật phát triển mạnh. Lớp sinh vật nổi có thể sinh sôi nảy nở nhờ một quá trình sinh học trong đó năng lượng Mặt Trời được sử dụng để tạo ra các hợp chất hữu cơ không thể thiếu cho sự sống. Phù du sinh vật được phân bố trên trên nhiều mét độ sâu làm nhiệm vụ một kho dự trữ cho hệ động vật. Làn nước trên mặt này cũng là khu nuôi dưỡng cho nhiều giống loài. - 30m: Vùng ánh sáng nước này là nơi sinh tồn của san hô trong các biển nhiệt đới. Nó tập hợp gần 1/4 tổng số các giống loài của biển đến đây để săn mồi hoặc ẩn náu. Phần lớn cá ở những vùng này có màu sắc đậm để hòa lẫn với môi trường và thoát khỏi các loài săn mồi. Bắt đầu từ –10m những con cá màu đỏ biến đi và chỉ có những con màu xanh lơ, màu lá cây tồn tại ở độ sâu tới -30m, nơi chỉ còn 3% ánh sáng xuyên tới. - 200m: Ánh sáng Mặt Trời xuyên xuống rất khó khăn đó là vùng hoàng hôn kéo sâu xuống tới –1000m, nước trở nên lạnh, không loài thực vật nào sống nổi do thiếu ánh sáng. Những con cá nhà táng giữ kỷ lục về lặn sâu trong vùng nước có ánh sáng mờ ảo này. Trong động vật có vú, cá nhà táng giữ kỷ lục về lặn sâu (ít nhất là 2250m), có thể chịu áp suất lớn gấp 200 lần so với trên mặt nước. Mỗi đêm hàng triệu động vật sống trong vùng nước này bơi ngược lên để ăn thức ăn (đó là những chất hữu cơ được tạo ra từ sự phân hủy xác chết và cặn bã từ trên mặt nước, rơi xuống liên tục). Đó là cuộc di cư hàng ngày lớn nhất thế giới. - 4000m: cuộc sống sinh sôi, nảy nở mạnh trong những suối có độc tố ở đáy đại dương. Đó là vùng tối kéo sâu tới các hẻm vực. Ánh sáng không thể tới và hiếm oxy. Riêng khu vực này có tới 15% giống loài biển có thể sống ở đáy sâu. Dọc theo các sống núi đại dương có những suối nóng phun ra những chất lỏng có nhiệt độ từ 200 – 300°C. Tuy nhiên sự sống vẫn phát triển mạnh quanh các suối đó với một mật độ vật chất sống có khi vượt quá hàng chục kg. Do đó từ nay người ta biết rằng sự sống có thể xuất hiện, tồn tại trong môi trường khắc nghiệt và không có ánh sáng. (Theo Địa lý trong trường học, tập 4 – Nguyễn Hữu Danh (chủ biên), NXB Giáo dục, 2005)
Tại sao độ muối ở các đại dương lại thay đổi theo vĩ độ? Trả lời Độ muối ở các đại dương thay đổi theo vĩ độ do sự khác nhau về tương quan giữa độ bốc hơi với lượng mưa và lượng nước sông đổ vào các đại dương: - Dọc Xích đạo độ muối thấp 34,5%%, tuy độ bốc hơi lớn nhưng lượng mưa lớn và lượng nước từ sông ngòi đổ ra đại dương lớn. - Vùng chí tuyến độ muối cao 36,8% do khí hậu khô nóng, độ bốc hơi lớn, mạng lưới sông ngòi ít phát triển. – Gần hai cực độ muối thấp 34% chủ yếu do khí hậu lạnh giá hạn chế sự bốc hơi.
Tại sao nước ở một số hồ lại mặn? Hàm lượng muối cho phép trong các hồ là dưới 20g/1 lít nước. Các hồ có hàm lượng muối cao hơn mức đó gọi là hồ mặn. Bản thân nước biển cũng chứa trung bình từ 35 – 42 gam muối/1 lít nước. Một cái hồ được gọi là siêu mặn khi nó chứa lượng muối 50g/1 lít nước trở lên. Có một số hồ nước mặn có nguồn gốc từ biển, nhưng cũng có một số hồ nước mặn do muối được kết tinh lại ở lớp đất nằm sâu dưới đáy hồ, Người ta có thể phân biệt hai loại hồ mặn lớn: – Loại thứ nhất gồm có những khúc của biển xưa bị tách rời sau những vận động kiến tạo. Biển Cax-pi và A—ran thực tế là những hồ vì chúng không có đường thông ra biển hoặc đại dương. Những hồ mặn khổng lồ đó là những vết tích của một biển xa xưa bị tách rời khỏi đại dương cách đây 5 triệu năm. Một phần tỉ lệ muối cao của chúng còn do tính chất của đất. Biển Chết (Tử Hải) nằm ở biên giới của I-xra-en Giooc-đa-ni, diện tích 1015 km 2 mặt nước thấp hơn mực nước biển 390m đã tách ra khỏi Ấn Độ Dương do vận động kiến tạo. Độ mặn của nước là 300%, cao gấp 10 lần đại dương, tỉ trọng của nước là 1,166 do đó ta có thể nằm trên hồ để đọc sách. Sở dĩ hồ có độ mặn cao như vậy vì đáy có một tầng muối dày 7km. - Loại thứ hai gồm những hồ kín không có lối thoát nước. Chúng được hình thành ở những nơi lòng chảo (như hồ Ây–rơ ở Ôxtrâylia không sâu quá 4m) cũng như trong những vết nứt lục địa. Muối tập trung trong hồ dần dần theo độ bốc hơi của nước. (Theo Địa lý trong trường học, tập 1 – Nguyễn Hữu Danh (chủ biên))
Sự tuần hoàn của nước Nước trong tự nhiên không ngừng chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác, hoàn thành những vòng tuần hoàn lớn và nhỏ. Sự bốc hơi của nước trên bề mặt đại dương, sự ngưngg đọng của hơi nước trong khí quyển và sự rơi của nước trên bề mặt đại dương tạo thành vòng tuần hoàn nhỏ. Nhưng khi hơi nước được các dòng không khí chuyển vào đất nổi, sự tuần hoàn của nước trở thành phức tạp hơn. Một phần nước rơi trên bề mặt đất nổi bị bốc hơi và quay trở lại khí quyển, phần khác theo con đường ở trên bề mặt đất và ở dưới bề mặt đất chảy vào những nơi thấp của địa hình, cung cấp nước cho các con sông và các bồn nước tù. Quá trình bốc hơi của nước và rơi xuống thành mưa trên đất nổi có thể được lặp lại nhiều lần, nhưng cuối cùng hơi nước từ ngoài đại dươn g được chuyển vào đất nổi bởi các dòng không khí, lại quay trở lại đại dương bằng các sông ngòi và các dòng ngầm, đã hoàn thành vòng tuần hoàn lớn của mình. Trong sự tuần hoàn chung của hơi nước, nước khí quyển tỏ ra rất di động. Lượng hơi nước trung bình trong khí quyển vào khoảng gần 13.000km3 nước, nhưng lượng nước mưa hàng năm trên Trái Đất là 519.000 km3, do vậy mà lượng hơi nước trong khí quyển phải quay vòng 40 lần trong một năm nghĩa là cứ 9 ngày đêm phải thay đổi một lần. Phải chi dùng quá 20% năng lượng Mặt Trời đi tới Trái Đất để bốc hơi 519km3 nước, nhưng lượng nhiệt chỉ dùng vào sự bốc hơi (60cal/g) lại được giải phóng lại khi hơi nước ngưng đọng. Như vậy, sự tuần hoàn của hơi nước còn kéo theo sự tuần hoàn của năng lượng nhiệt. (Theo Những quy luật địa lý chung của Trái Đất – X.V. Kalexnik, NXB Khoa học – Kĩ thuật, 1973)
Tốc độ dòngg chảy của sông phụ thuộc vào những nhân tố nào? Trả lời Tốc độ dòng chảy của sông phụ thuộ c vào: - Độ dốc lòng sông (độ chênh mặt nước): độ dốc lòng sông càng nhiều thì tốc độ dòng chảy càng lớn. - Chiều rộng lòng sông: ở khúc sông rộng, nước chảy chậm; đến khúc sông hẹp, nước chảy nhanh hơn.
Nêu một số dẫn chứng cụ thể cho thấy hồ có nhiều nguồn gốc hình thành khác nhau. Trả lời - Hồ do khúc uốn của sông; Hồ Tây (Hà Nội). - Hồ do băng hà: các hồ ở phía Bắc Canada (hồ Gấu lớn, hồ Nô Lệ lớn, hồ Uynipec...), các hồ ở Phần Lan. - Hồ do vận động kiến tạo: các hồ ở Đông Phi (Tan-ga-ni-ca, Ni-at-xa, Vich-to-ri-a...), hồ Bai-can (LB Nga). - Hồ do gió trong hoang mạc: hồ Sat trong hoang mạc Xa-ha-ra. – Hồ miệng núii lửa: hồ Lắk (Tây Nguyên).
Vì sao nước ngầm ngày càng giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội loài người. Trả lời Nước ngầm là nguồn nước có trữ lượng lớn và là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho sinh hoạt trong đời sống hàng ngày của con người, nhất là trong các đô thị. Không chỉ vậy nước ngầm còn cung cấp nước cho các hoạt động sản xuất như nước tưới cho nông nghiệp, nước dùng trong sản xuất công nghiệp, nước khoáng nước nóng phục vụ du lịch... Nhu cầu sử dụng nước của con người ngày càng tăng trong khi nguồn nước mặt nhiều nơi đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, nguồn nước ngọt ngày càng khan hiếm... Tất cả điều đó làm cho vai trò của nước ngầm ngày càng quan trọng trong đời sống xã hội loài người.
Mưa đá Mưa đá là hiện tượng hạt nước đóng thành băng rơi từ khí quyển xuống mặt đất cùng với nước mưa hoặc không kèm nước mưa (tức là mưa đá khô). Trong quá trình hình thành mưa đá thì tốc độ đóng băng phụ thuộc vào nhiệt độ của nước. Thông thường nước đóng băng từ nhiệt độ 0°C và thấp hơn. Hạt mưa đá thường xuất hiện ở độ cao cách mặt đất từ 5km – nơi mà nhiệt độ ngay về mùa hè cũng thấp hơn 0°C. Khi mới hình thành hạt mưa đá còn nhỏ, nó sẽ tiếp tục lớn lên bằng hai cách: thứ nhất là nó sẽ tự lớn lên bởi hơi nước sẽ tiếp tục ngưng bám quanh nó sau mỗi lần được đẩy lên cao; thứ hai là nó kết dính với các hạt mưa đá khác. Các nhà khoa học cho rằng: muốn hình thành mưa đá phải có những luồng khí thăng lên rất mạnh. Muốn giữ một hạt mưa đá trong không khí có đường kính lcm cần phải có một luồng khí thẳng đứng với tốc độ 10m/s, muốn giữ hạt mưa đá có đường kính 5cm, tốc độ luồng không khí đi lên phải bằng 20m/s. Khi luồng không khí đã yếu đi, tốc độ chậm lại không đủ sức mang các hạt nước đá lên cao nữa thì chúng sẽ rơi xuống và tạo thành mưa đá. Bề dày của các đám mây cho mưa đá rất lớn có thể vượt quá 10km. Hạt mưa đá thường chi bằng hạt bắp, trái táo, quả trứng, đôi khi đạt tới 2 – 3kg/hạt. Mặc dù mưa đá là một hiện tượng hiếm thấy nhưng khi xảy ra nó có sức phá hoại mùa màng, hoa màu, gia súc, nhà cửa và cây cối. Ngày nay ở các nước tiên tiến, để tránh tổn thất, người ta đã khống chế được mưa đá bằng cách dự báo trước và phá tan những trận mưa đá trước khi chúng rơi xuống bằng cách phóng tên lửa vào những đám mây tạo mưa đá. Nhờ có cấu tạo đặc biệt khi đi qua những đám mây tên lửa nổ tung và phá tan các giọt mưa đá. (Theo Địa lý trong trường học, tập 4 – Nguyễn Hữu Danh (chủ biên), NXB Giáo dục, 2005)
Nêu nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự ngưng tụ hơi nước trong không khí. Sương mù và mây được hình thành trong những điều kiện như thế nào? Trả lời - Sự ngưng tụ của hơi nước trong không khí do hai nguyên nhân chính: + Hơi nước ngưng tụ chủ yếu do nhiệt độ không khí giảm, làm cho độ ẩm bão hòa giảm xuống, không khí đạt mức bão hòa lại gặp lạnh, độ ẩm vượt mức bão hòa và hơi nước ngưng kết lại. + Tuy nhiên đó mới là điều kiện cần, hơi nước chỉ ngưng tụ khi có hạt nhân ngưng kết. Hạt nhân ngưng kết là những hạt nhỏ như: tro, bụi, hạt muối biển... do gió đưa vào không khí. - Sương mù được hình thành do sự ngưng tụ của hơi nước ở lớp không khí gần mặt đất, trong điều kiện độ ẩm tương đối cao, khí quyển ổn định theo chiều thẳng đứng (không có đối lưu) và có gió nhẹ. - Mây được hình thành ở lớp không khí trên cao. Mây hình thành trong điều kiện bốc hơi mạnh mẽ, không khí bị đẩy lên cao, càng lên cao càng lạnh và đạt bão hòa ở một độ cao nào đó, tiếp tục lên cao vượt mức bão hòa, hơi nước ngưng tụ thành những hạt nước nhỏ và nhẹ. Các hạt nước tụ lại thành từng đám gọi là mây.
Vì sao độ ẩm tươngg đối là một trong những căn cứ để dự báo thời tiết? Trả lời Độ ẩm tương đối là tương quan giữa độ ẩm tuyệt đối và độ ẩm bão hòa, nó cho chúng ta biết được trạng thái không khí khô hay ẩm và cần bao nhiêu hơi nước nữa thì đạt mức bão hòa và vượt mức bão hòa để có thể ngưng kết. Vì vậy nó là một trong những căn cứ để dự báo thời tiết.
Dựa vào hình 13.2 và kiến thức đã học, hãy trình bày và giải thích tình hình phân bố lượng mưa trên các lục địa theo vĩ tuyến 30B từ Đông sang Tây. Trả lời Lượng mưa phân bố không đều trên các lục địa dọc vĩ tuyến 30°B: – Trên lục địa Bắc Mĩ: phía đông lượng mưa lớn hơn (1001–2000mm/năm) do ảnh hưởng của dòng biển nóng, phía tây lượng mưa nhỏ (<500mm/năm) do ảnh hưởng của dòng biển lạnh. - Khu vực Bắc Phi và Tây Nam Á lượn g mưa rất thấp (201– 500mm/năm, có nơi < 200mm) do chịu sự thống trị thườn g xuyên của áp cao chí tuyến, diện tích lục địa lớn, ven biển phía tây Bắc Phi chịu ảnh hưởng của dòng biển lạnh. - Phía đông thuộc khu vực Nam Á, Đông Á có lượng mưa lớn (>1000mm/năm) do nằm trong vùng hoạt động của gió mùa.
NGƯNG ĐỌNG HƠI NƯỚC TRONG KHÍ QUYỀN. MƯA 1 Độ ẩm tuyệt đối và độ ẩm tương đối - Độ ẩm tuyệt đối: Là lượng hơi nước được tính bằng gam trong 1m không khí, ở một thời điểm nhất định. - Độ ẩm tương đối: Tỷ lệ phần trăm giữa độ ẩm tuyệt đối của không khí với độ ẩm bão hoà ở cùng nhiệt độ. 2 Các hiện tượng ngưng tụ - Sương: là hiện tượng hơi nước ngưng đọng ở lớp không khí gần mặt đất. - Mây: Là hiện tượng ngưng đọng hơi nước ở trên cao. - Mưa: Khi các hạt nước trong các đám mây đủ lớn rơi xuống đất. 3 Những nhân tố ảnh hưởng tới lượng mưa - Khí áp: Vùng có khí áp cao thường ít mưa hoặc không mưa; vùng có khí áp thấp thường mưa nhiều. - Frong: Khu vực có frong hoặc giải hội tụ đi qua thường mưa rất nhiều. - Gió: Vùng mưa nhiều: Gió Tây ôn đới, gió mùa; vùng mưa ít: Gió mậu dịch, gió phơn. - Dòng biển: Nơi có dòng biển nóng đi qua mưa nhiều; nơi dòng biến lạnh hoạt động mưa ít. - Địa hình: sườ n đón gió mưa nhiều, sườn khuất gió mưa ít 4 Sự phân bố lượng mưa - Lượng mưa phân bố không đều theo vĩ độ. Khu vực Lượng mưa Nguyên nhân Xích đạo 0° mưa nhiều >1500m - T° cao, nước bốc hơi nhiều. - Nơi hình thành áp thấp. Chí tuyến (25-30°) mưa ít khoảng 600mm - Nơi có khí áp cao. Ôn đới mưa trung bình 600 – 700 mm - Gió Tây ônn đới hoạt động mạnh. Cực (90°) mưa rất ít khoảng 100 mm - Là nơi có khí áp cao; do quá lạnh. - Lượng mưa không đều do ảnh hưởng của đại dươngg: ở ôn đới, bờ tây mưa nhiều hơn bờ đông; ở nhiệt đới, bờ đông lục địa, mưa nhiều hơn ở bờ Tây. Càng vào sâu trong nội địa, mưa càng ít.
Nguyên nhân sinh ra gió mùa Vào cuối thế kỉ XVII, Ha-lây đã dựa vào sự thay đổi nhiệt theo mùa của lục địa và đại dương để giải thích hiện tượng gió mùa. Theo ông, sở dĩ có gió mùa là do có khối lục địa to lớn nằm kề cận đại dương. Ví dụ, lục địa Á – Âu nằm kề Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương. - Mùa Đông, lục địa lạnh hơn đại dương bao quanh do mất nhiệt nhanh hơn. Lục địa trở thành áp cao, gió lạnh, khô từ trung tâm áp cao (ví dụ ở Xi-bi-a) thổi đến trung tâm áp thấp ở đại dương (ví dụ ở Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương): đó là gió mùa mùa đông có hướng chính là hướng Đông Bắc và Tây Bắc (tùy theo từng khu vực). – Mùa hè, đại dương mát hơn lục địa tạo ra các trung tâm áp cao trên đại dương và đưa gió vào lục địa (trong khi lục địa bị hun nóng trở thành áp thấp): đó là gió mùa mùa hè, có hướng chính là hướng Tây Nam, Đông Nam. Như vậy, cơ chế của gió mùa mùa hè và gió mùa mùa đông cũng tương tự như gió đất, gió biển nhưng một bên có tầm vóc hành tinh (gió mùa) và diễn ra hàng năm, còn một bên chỉ hạn hẹp ở địa phương (gió đất – biển) và diễn ra trong ngày. (Theo Địa lý trong trường học, tập 2 – Nguyễn Hữu Danh (chủ biên), NXB Giáo dục, 2002)
Về lỗ thủng tầng ô-dôn - Tầng ô–dôn trong khí quyển ngày càng mỏng đi là do tác động của con người. Từ năm 1974, các nhà khoa học đã phát hiện tác nhân chính là chất CFC (cloro fluoro carbone), một hợp chất của clo được dùng để làm lạnh các tủ lạnh, máy điều hòa không khí... Chất CFC bốc lên không khí sẽ bị các tia cực tím phân hủy, giải phóng clo và phá hủy kết cấu của ô-dôn. Một nguyên tử clo này có thể phá hủy đến 100.000 phân tử ô-dôn. - Chất CFC khuếch tán khắp mọi nơi trên không trung. Chỉ riêng ở trên Nam cực, do điều kiện khí tượng khắc nghiệt đã hình thành một lỗ thủng tầng ôdôn. Vào mùa đông, đêm kéo dài đến 24 giờ, nhiệt độ không khí rất thấp (-40°C). Một luồng khí xoáy xoay quanh cực Nam, ngăn cách không khí lạnh khô ở cực với không khí ấm và ẩm ở đới ôn hòa. Khi nhiệt độ trong lốc xoáy hạ thấp xuống đến –90C, thì không khí ở bên trên sẽ ngưng tụ thành mây băng, gây ra sự biến đổi hóa học các hạ lô–gen (flo, clo, brôm). Vào mùa xuân của Nam cực (tháng 8), khi Mặt Trời trở lại, các chất này gây ra phản ứng phá hủy ô-dôn, tạo nên lỗ thủng ngày càng lớn. Mùa hạ đến, không khí nóng dần lên, mây tan và các chất gây ô nhiễm tạm dừng hoạt động cho đến mùa xuân năm sau. Như thế là điều kiện để phá hủy tầng 6 dân chỉ có thể xảy ra bên trên vòng lốc xoáy bao quanh cực Nam của Trái Đất. Ở Bắc cực, băng chỉ bao phủ mặt biển nên nhiệt độ không khí ở đây cao hơn: khoảng 10°C. Điều đó ngăn cản sự hình thành vòng lốc xoáy quanh cực, nên không gây ra lỗ thủng ô-dôn. – Lần đầu tiên các nhà khoa học phát hiện ra lỗ thủng ô dân trên bầu trời Châu Nam Cực là vào năm 1982. Lỗ thủng mở rộng dần và gấp đôi vào tháng 10 – 2000. Lúc đó diện tích lỗ thủng này có diện tích rộng lớn nhất (tương đương diện tích của châu Âu). Năm 2002, các ảnh vệ tinh cho thấy lỗ thủng này đã tách ra làm hai mảng và có tổng diện tích nhỏ nhất trong vòng 10 năm gần đây. Từ năm 1987, hơn 140 nước đã họp ở Ca-na—đa và kí nghị định thư Môn-rê-an tán thành việc hạn chế và đi đến xóa bỏ dùng CFC trong kỹ nghệ đông lạnh. Các nhà khoa học nhận thấy rõ ràng là từ năm 2002 đến nay lỗ thủng tầng ôdôn đã ngừng mở rộng. Tuy nhiên, lỗ thủng này có thể sẽ tồn tại đến hơn 40 năm nữa do các chất khí gây hiệu ứng nhà kính vẫn còn nhưng sự lạnh đi của tầng bình lưu sẽ ngăn cản những phản ứng hóa học phá hủy tầng ô–dân trong tương lai. (Nguồn: Địa lí trong trường học, tập 3 – Nguyễn Hữu Danh (chủ biên), NXB Giáo dục, 2004)