Bởi Học văn cô Hà Huyền | 25/04/2024 0 bình luận

Nhiệt độ không khí ở tầng đối lưu do đâ u mà có? – Một phần nhiệt ở tầng đối lưu do hấp thụ trực tiếp năng lượng bức xạ Mặt Trời, nhưng chủ yếu nhiệt ở tầng đối lưu có được do sự tỏa nhiệt của bề mặt đất được Mặt Trời đốt nóng.

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 25/04/2024 0 bình luận

Về một số núi lửa trên thế giới * Núi lửa Vê-su-vơ. Nằm bên bờ vịnh Na-ple của I-ta-li-a. Suốt nhiều thế kỉ trước, người ta chưa bao giờ thấy biểu hiện gì ở khu vực này; thế nhưng vào năm 63 hàng loạt các cơn động đất đã diễn ra làm rung chuyển cả khu vực và đến trưa ngày 24/8/79 núi Som-ma bắt đầu trở mình và thảm họa ngày 24/8 này đã chôn vùi suốt 17 thế kỷ cho đến khi chúng được khai quật hai thành phố Herculaneum và Pompeii. Trong năm 79, một phần của núi Som-ma bị sụt lở tạo thành núi Vê-su-vơ như ngày nay. Trong suốt thời gian hoạt động của núi lửa, thành phố Pompeii bị chôn vùi bởi đá vụn núi lửa, còn dân chúng bị chết ngạt do các khí núi lửa, tro còn một số thì bị chôn vùi. Thành phố Herculaneum bị chôn vùi dưới một lớp tro thấm nước khá dày. Sau năm 79, các đợt phun đá vụn vẫn tiếp tục, thời gian yên nghỉ của Vê-su-vợ lâu nhất là 494 năm; sau đó là các đợt phun dung nham vào năm 1631; đây là đợt phun dung nham đầu tiên của Vê-su-vơ. Trong dung nham có hàm lượng đá vôi khá lớn và chúng có nguồn gốc biển sâu 5km. * Núi lửa Ka-ra-ka-tau. Năm 1883, một trong những vụ nổ núi lửa lớn nhất thế giới xảy ra ở Ka-ra-ka- tau thuộc dãy Sun-da Strait giữa Ja-va và Su-ma-tra của In-đô-nê-xi-a. Trước đây Ka-ra-ka-tau là một hòn đảo đơn độc, được nâng lên từ một núi lửa dưới đáy biển. Vào ngày 26/8/1883, một loạt các vụ nổ lớn xảy ra và vào lúc 10 giờ 20 phút sáng ngày hôm sau, một vụ nổ cực lớn đã làm nổ tung hai ngọn núi bên cạnh và một phần của hòn đảo Ka-ra-ka-tau cao 800m đã bị nước biển ngập đến 300m. Tiếng nổ lớn đến mức ở một hòn đảo cách đó 5000km người ta cũng nghe thấy. Nó tạo ra một làn sóng áp suất lan truyền khắp nơi trên thế giới. Kèm theo đó là một trận lụt lớn làm cho 36.500 cư dân trên đảo Ja-va và Su-ma-tra chết đuối. Các cột tro và đá bọt bị bắn tung tóe, tỏa rộng trong không khí với bán kính vài km, còn bụi thì được đẩy lên không trung phân tán khắp nơi trên thế giới và mãi hai năm sau mới rơi xuống và phân hủy. Trong suốt thời gian này, hoàng hôn trên thế giới có màu rất lạ, một vòng tròn đỏ bao quanh Mặt Trời và người ta gọi đó là “chiếc vòng của giáo sĩ”. Từ sau 1883, Ka-ra-ka-tau tái hoạt động đôi lần và hiện đang trong quá trình tái tạo. * Núi lửa Xanh Hê-len. Người khổng lồ đang ngủ say, bỗng thức dậy cùng với các tiếng nổ long trời, bắn tung cả đỉnh núi, đó là chuyện xảy ra ngày 18/5/1980 ở núi Xanh Hê-len thuộc bang Oa-sinh-tơn Hoa Kỳ. Trước khi hoạt động, các điềm báo về núi lửa đã xảy ra như động đất và thoát khí đã diễn ra suốt hai tháng liền. Lần hoạt động cuối cùng trước đó của Xanh Hê-len là vào năm 1831. Núi Xanh Hê-len có độ cao 2.950m so với mực nước biển. Sau khi hoạt động, đỉnh núi này chỉ còn cao 2.560m và như thế hàng loạt tro đá và các khí đã được trút xuống khu vực xung quanh, giết chết 70 người, hàng loạt cây cối, hoa màu và gia súc bị chôn vùi. (Theo Địa chất cơ sở - Huỳnh Thị Minh Hằng (chủ biên), NXB ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh, 2001)

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 25/04/2024 0 bình luận

Dạng địa hình phi-o ở Na Uy Ở bờ biển phía Tây Na–uy, trên bán đảo Xcăng-đi-na...vi có núi cao hiểm trở và rất nhiều phi–o. Rất nhiều phi–o cùng với hơn 150.000 đảo nhỏ và đá ngầm làm thành tuyến bờ biển dài hơn 20.000 km quanh co khúc khuỷu nhất thế giới. Hình dáng đất nước Na-uy hẹp ngang và kéo dài, từ Bắc đến Nam hơn 1.770km, từ Đông sang Tây từ 10 – 400km, chỗ hẹp nhất chỉ có 6km. Ở đây, các phi-o nổi tiếng, có hình dạng độc đáo, ăn sâu vào đất liền vừa sâu thẳm, lại quanh co, hai bờ vách đá dựng đứng cheo leo. Phi-o trên thực tế là một loại vịnh biển hẹp, dài và quanh co, chỉ rộng vài km nhưng lại dài tới vài chục tới vài trăm km. Các phi-o tạo nên cảnh đẹp của Na-uy đã trở thành nổi tiếng trên thế giới. Tất cả các phi-o của Grơn–len, A–lax–ca, ở bán đảo La–bra-đo của Ca-na-đa, ở phía Nam Chi–lê đến Niu-di–lân đều thua kém. Nổi tiếng nhất là phi-o Xan-cơ-va dài 220km, rộng 4km, nước ở cửa vịnh chỉ sâu 45m, nhưng chỗ sâu nhất trong lòng vịnh tới 1.224m. Hai bên bờ là núi cao, sườn núi thẳng đứng lên trên. Những đỉnh núi cao cách mặt biển 1.500m. Phèo có 10 nhánh. Hai bên bờ là những tầng đá cứng chắc, chủ yếu là do đá granit và đá phiến tạo thành. Trong phi−o, vách núi nọ tiếp vách núi kia, lối lên bờ hầu như không có. Tuy vậy, cũng có một số doi đất hẹp, trên đó xây những đô thị nhỏ. Phi-o là đường hàng hải quan trọng, có thể thông tàu lớn, là cảnh vịnh thiên nhiên đẹp. Nhưng vì sao Na-uy có nhiều phi-o như vậy? Nguyên nhân là do trong thời kỳ băng hà của kỷ Đệ Tứ, Nau-uy lúc đó nằm dưới lớp băng dày. Băng hà trường kỳ xâm thực và đào khoét, khiến các bờ biển có hình thành nhiều khe sâu. Sau khi băng hà lui, nước biển tràn vào đã biến thành các vịnh phi-o hẹp và khúc khuỷu. (Nguồn: Những mẫu chuyện lý thú về Địa lí tự nhiên, Đoàn Mạnh Thế NXB Giáo dục, 2004)

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 25/04/2024 0 bình luận

Hẻm vực lớn Cô - Lô - ra - đô –  Một kì tích của giới tự nhiên Vực lớn Cô–lô-ra-đô của Mỹ là vực dài nhất thế giới. Nó bắt nguồn từ dòng sông nhỏ Cô-lô-ra-đô, dài 349km, rộng 6 – 28km, chỗ sâu nhất hơn 2000m. Dòng sông Cô-lô-ra-đô ngoằn ngoèo uốn lượn bên trong. Nước sông không ngừng xâm thực, xói lở, chính là nguyên nhân chủ yếu hình thành chủ yếu làm hình thành vực lớn. - Vực lớn Cô-lô-ra-đô thuộc bang A-ri-zô-na ở miền Tây nước Mỹ. Nó có vách đá dựng đứng, bên dưới hẹp, bên trên rộng. Trong vực tối âm u, tầng tầng, lớp lớp các vỉa đá nham thạch lộ ra. Chúng vẫn giữ nguyên trạng thái sơ khai. Nếu từ xa nhìn vào, do vực quanh co ta thấy chúng như hàng vạn quyển sách xếp chồng lên giá. Điều đáng ngạc nhiên là cảnh sắc trong vực thẳm thay đổi không có quy luật. Trong vực thường có sương mù tụ lại tạo thành sắc tím. Những ngày đẹp trời, trong vực có lúc biến thành sắc đỏ đột nhiên biến thành tím đỏ, vàng, lam, hoặc trắng, cuối cùng lại biến thành sắc tím. Vực Cô–lô-ra-đô là một phần cuốn sách giáo khoa địa chất sống. Từ dưới đáy vực trèo dần lên cao, tầng nọ xếp chồng tầng kia. Tầng đá cổ dưới đáy là đá phiến và mica phiến, lên trên một chút là tầng đá nguyên cổ. Cao nữa là các tầng đá thuộc đại Cổ sinh, trong đó lưu giữ hóa thạch của các loại sinh vật cổ đại diện cho từng loài ở những thế kỉ khác nhau. Kỳ tích này do đâu mà có? Theo các nhà khoa học: mấy triệu năm trước, vùng vực lớn này từng là đáy biển. Khoảng sau đại Trung sinh, lớp vỏ Trái Đất vận động mãnh liệt, nơi này dần dần nâng cao. Do lực nâng không đều, thêm vào đó áp lực lại không bằng nhau, nên tuy địa tầng vẫn duy trì được trạng thái cân bằng mà bờ bắc lại cao hơn bờ nam. Sau này, dòng sông Cô-lô-ra-đô chảy vào bên trong, trải qua hàng triệu năm xâm thực, xói mòn, vì các địa tầng có chỗ cứng, chỗ mềm nên đã bị xâm thực thành vực đến độ sau như ngày nay. (Nguồn: Những mẫu chuyện lý thú về Địa lí tự nhiên, Đoàn Mạnh Thế, NXB Giáo dục, 2004)

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 25/04/2024 0 bình luận

Địa hình miền núi và quá trình thành tạo miền núi Núi là dạng địa hình có độ cao tương đối trên 200m so với các địa hình tạo mặt bằng xung quanh. Núi có thể đứng đơn lẻ hoặc tập hợp thành dãy núi, vùng núi hoặc miền núi. Miền núi là tập hợp của nhiều vùng núi, phân bố trên một diện tích rộng lớn. Về mặt địa chất được cấu tạo bởi nhiều cấu trúc địa chất, các đá có tuổi khác nhau của vỏ lục địa được nâng lên trên mặt nước biển – đại dương hoặc đồng bằng lân cận. Về mặt hình thái, có sự phân dị rõ nét; đỉnh nhọn, sườn dốc, thung lũng sâu, độ cao thay đổi trên những khoảng cách không lớn. Trong miền núi, bên cạnh những địa hình dương còn có những địa hình âm: thung lũng, bồn địa tạo nên sự chênh cao tương đối từ vài trăm đến vài nghìn mét. Ví dụ: ở miền núi Tây Bắc Việt Nam, ngoài những vùng núi còn có các bồn địa: Điện Biên, Văn Chấn, Than Uyên… Về quá trình hình thành, theo thuyết Kiến tạo “Địa mảng” cho rằng miền núi tương ứng với miền có quá trình tạo núi. Đó là miền đã diễn ra các pha nâng cao uốn nếp tạo núi sau thời kỳ sụt lún mạnh của địa máng. Miền núi còn có thể hình thành bởi các đứt gãy sâu dạng khối trong các miền nền hình thành tử trước do ảnh hưởng các pha nâng cao uốn nếp của địa máng nằm kề. Địa hình miền núi hiện nay là kết quả của quá trình nâng cao Tân kiến tạo diễn ra từ kỉ Neogen tới nay với cường độ nâng cao lớn hơn cường độ bóc mòn bồi tụ. Theo thuyết “Kiến tạo màng” thì miền núi được hình thành do sự va chạm giữa các mảng thạch quyển khi di chuyển ngược chiều nhau hoặc do quá trình tách dẫn trong nội bộ mảng ở lục địa. Khi hai mảng lục địa va chạm nhau sẽ dẫn tới hiện tượng một mảng luôn xuống, mảng kia chờm lên trên. Mảng kia chờm lên trên do lực cân bằng đẳng tĩnh nên được dâng cao và các lớp đá bị uốn nếp, đứt gãy. Do các đá có độ cứng khác nhau, cấu trúc địa chất khác nhau nên dưới tác dụng của quá trình ngoại lực, bề mặt bị phá hủy và chia cắt thành vùng núi. Mảng luôn xuống, do nhiệt độ cao nên vật chất nóng chảy, độ đặc kém, chúng theo khe nứt của mảng chờm lên thoát ra ngoài mặt hình thành các trung tâm núi lửa. Trong nội bộ mảng ở lục địa, quá trình tách dãn hình thành các trũng địa hào và các vùng cao nằm kề. Dưới tác dụng của ngoại lực, các vùng cao sẽ bị chia cắt thành vùng núi. (Nguồn: Địa lí tự nhiên đại cương, tập 1 – Nguyễn Trọng Hiếu, Phùng Ngọc Đĩnh, NXB Sư phạm, H, 2003)

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 25/04/2024 0 bình luận

Có hai vận động kiến tạo: - Vận động theo phương thẳng đứng (vận động nâng lên và hạ xuống): Vận động này xảy ra rất chậm và trên diện tích lớn. Nó làm cho bộ phận này của lục địa được nâng lên, trong khi bộ phận khác bị hạ xuống, sinh ra hiện tượng biến tiến, biển thoái. - Vận động theo phương nằm ngang: Vận động này làm cho vỏ Trái Đất bị nén ép ở khuu vực này và tách dãn ở khu vực kia, gây ra hiện tượng uốn nếp hình thành các miền núi uốn nếp và hiện tượng đứt gãy hình thành hẻm vực, thung lũng, các địa hào, địa lũy...

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 25/04/2024 0 bình luận

Thuyết “Kiến tạo mảng” và thuyết “Lục địa trôi” Đây là hai luận thuyết khác nhau. Thuyết Kiến tạo mảng luận bàn về sự chuyển động của các mảng lục địa và đại dương. Thuyết này ra đời vào những năm 60 của thế kỉ XX trên cơ sở thuyết Lục địa trôi của nhà bác học người Đức Vê-ghê-ne. Thuyết Lục địa trôi được Vê-ghê-ne công bố vào năm 1915 dựa vào những chứng cớ: sự khớp nhau của đường bờ biển (ví dụ bờ Đông của Nam Mĩ với bờ Tây của châu Phi); sự khớp nha u về đá và cấu trúc địa chất (ví dụ: đá có tuổi cacbon ở Anh và vùng núi Apalat ở Bắc Mĩ, các lớp phủ badan ở G-ron-len và các đảo ở Bắc Mĩ...); sự giống nhau của một số loài sinh vật cổ của Nam Mỹ và châu Phi. Vê-ghê–ne cho rằng ở đại Cổ sinh, trên Trái Đất chỉ có một lục địa thống nhất là siêu lục địa nguyên thủy Pan-ge–a (trong tiếng Hy Lạp: pan nghĩa là toàn bộ, gea nghĩa là đất). Ông cho rằng khoảng 150 triệu năm trước, Pan-ge–a bắt đầu nút ra thành từng mảng. Trong giai đoạn đầu lục địa Pen-ge–a tách ra thành lục địa Nam Cực, châu Úc, Ấn Độ và châu Phi – Nam Mĩ. Về sau Nam Mĩ và châu Phi và lại bị tách ra và tạo thành Đại Tây Dương. Tuy nhiên, với sự tiến bộ của khoa học sau này đã có rất nhiều số liệu mới chứng tỏ không chỉ lục địa di chuyển mà các đại dương cùng với lục địa cũng chuyển động. Nhờ đó, các nhà bác học đã bổ sung, xây dựng nên học thuyết “Kiến tạo mảng” (còn gọi là thuyết Tách giãn đáy đại dương, hoặc thuyết Kiến tạo toàn cầu). Theo thuyết này thì bề mặt Trái Đất được chia thành 7 mảng lớn và một số mảng nhỏ. Mỗi mảng gồm cả phần lục địa và đại dương, riêng mảng Thái Bình Dương chỉ gồm có phần đại dương. Các mảng này nhẹ và nổi trên lớp vật chất dẻo quánh của Man-ti trên và di chuyển chậm chạp, trong khi di chuyển chúng có thể xô húc nhau hoặc tách xa nhau. Luận thuyết này cho rằng trước đây chừng 300 triệu năm đã tồn tại hai lục địa Gon-va-na và Lo-ra-xi–a. Đại lục Gon–va-na gồm có Nam Mĩ, châu Phi, Ấn Độ, châu Úc và lục địa Nam Cực. Địa lục Lora–xia gồm có Bắc Mĩ và Bắc Âu – Á. Sau đó hai đại lục này bị tách ra và khoảng 1 triệu năm trước thì có hình dạng như ngày nay. (Nguồn: Địa lí tự nhiên đại cương, tập 1 – Nguyễn Trọng Hiếu, Phùng Ngọc Đĩnh, NXB Sư phạm, H, 2003)

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 25/04/2024 0 bình luận

Các đá: macma, trầm tích, biến chất được hình thành như thế nào? Nêu đặc tính của từng nhóm đá đó. - Đá macma: là kết quả nguội lạnh của khối vật chất nóng chảy trong lòng Trái Đất (khối vật chất này gồm nhiều chất khác nhau). Đặc tính của đá là rất cứng, ví dụ như: đá granit, đá badan... - Đá trầm tích: được hình thành ở các miền trũng, là kết quả của sự lắng tụ và nén chặt các vật liệu vụn nhỏ như: cuội, sỏi, cát, sét... và xác sinh vật. Đá này mềm hơn đá macma, có sự phân lớp rõ rệt và chứa hóa thạch sinh vật, ví dụ như: đá vôi, sét, cát kết.... - Đá biến chất: được tạo thành từ đá macma và trầm tích bị biến chất do tác dụng của nhiệt và áp suất lớn. Đá này có thành phần hóa học, cấu trúc... bị biến đổi nhiều so với dạng ban đầu, ví dụ như: đá hoa, gơnai, phiến mica...

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 08/04/2024 0 bình luận

Thế nào là chuyển động biểu kiến hằng năm của Mặt Trời? Trả lời Chuyển động biểu kiến là chuyể n động thấy bằng mắt nhưng không có thực. Do trong quá trình quay xung quanh Mặt Trời, trục Trái Đất luôn nghiêng và không đổi hưởng, nên trong một năm ở Trái Đất người ta thấy Mặt Trời lần lượt lên thiên định tại các địa điểm từ 23°27′B cho tới 23°27′N rồi lại trở về 23°27′B. Điều đó làm cho ta có ảo giác rằng Mặt Trời di chuyển trong vùng nội chí tuyến (mà thực tế là Trái Đất chuyển động tịnh tiến quanh Mặt Trời). Chuyển động không có thực đó của Mặt Trời gọi là chuyển động biểu kiến hằng năm của Mặt Trời.

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 08/04/2024 0 bình luận

Tại sao sự chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời lại tạo nên các mùa trong năm? - Mùa là phần thời gian của năm, nhưng có những đặc điểm riêng về thời tiết và khí hậu. – Nguyên nhân gây ra mùa là do Trái Đất chuyển độn g xung quanh Mặt Trời và trong quá trình chuyển động trục Trái Đất luôn nghiêng 66°33′ với mặt phẳng Hoàng đạo và không đối phương trong không gian. Nên có thời kì bán cầu Bắc ngả về phía Mặt Trời, có thời kì thì bán cầu Nam, có thời kì Mặt Trời chiếu đều cả hai bán cầu. Điều đó làm cho thời gian chiếu sáng và thu nhận bức xạ Mặt Trời mỗi bán cầu thay đổi trong năm gây nên hiện tượng mùa.

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 08/04/2024 0 bình luận

Sao chổi và cao băng Sao chổi: - Sao chổi Phần lớn các sao chổi chuyển động quanh Mặt Trời theo quỹ đạo hình ê-líp dẹt. Sao chổi gồm hai bộ phận: đầu và đuôi sao chổi. Chúng có khối lượng nhỏ nhưng thể tích rất lớn. Đầu sao chổi là một lõi rắn (nhân sao chổi) do các khối thiên thạch gắn kết với nhau bởi hỗn hợp tuyết và bụi. Nhân có dạng thon dài, bên ngoài được bao bọc bởi một lớp vỏ khí dày nhưng rất loãng. Khi sao chổi di chuyển đến gần Mặt Trời dưới tác động của nhiệt độ cao, nhân sao chổi phát ra các luồng khí và bụi, tạo nên một cái đuôi hình cái chổi, kéo dài về phía đối diện với Mặt Trời. Chiều dài của đuôi sao chổi có khi kéo dài tới vài trăm triệu km. Sao chổi Halley là một sao chổi nổi tiếng với chu kì cứ cách 76 năm nó lại bay tới cạnh Mặt Trời một lần. Nó có đường kính vùng sợi chổi dài tới 570.000km. Sao chổi này do nhà thiên văn học người Anh, Halley, sống ở thế kỉ XVII đã dựa vào định luật vạn vật hấp dẫn tìm ra quỹ đạo bay và chu kì của nó vào năm 1682. - - Sao băng: Sao băng là một loại vật chất Vũ Trụ bay vào tầng khí quyển của Trái Đất bị cọ sát và phát sáng. Những vật chất này di chuyển trong Vũ Trụ với tốc độ và quỹ đạo riêng. Bản thân chúng không bị phát sáng. Đôi khi chúng bay về phía Trái Đất với tốc độ rất nhanh từ 10km tới 70 – 80km/s. Nhưng khi bay vào tầng khí quyển của Trái Đất chúng cọ sát với các phần tử của khí quyển khiến không khí bị đốt nóng tới mấy nghìn độ thậm chí là mấy vạn độ, bản thân những vật chất Vũ Trụ cũng bị đốt cháy và phát sáng. Nhưng chúng không cháy hết ngay mà cháy dần theo quá trình chuyển động của chúng, tạo thành các vệt sáng hình vòng cung. Có trường hợp những vật chất Vũ Trụ quá lớn không kịp chảy hết và rơi xuống Trái Đất, người ta gọi chúng là các thiên thạch. (Nguồn: Địa lí tự nhiên đại cương, tập 1 – Nguyễn Trọng Hiếu, Phùng Ngọc Đĩnh, NXB Sư phạm, H, 2003)

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 08/04/2024 0 bình luận

Mô hình Vũ Trụ địa tâm và mô hình Vũ Trụ nhật tâm. - Mô hình Vũ Trụ địa tâm: Mô hình này do nhà toán học, thiên văn học người Hy Lạp, P-tô-lê-mê (100 – 170 sau CN) đưa ra để giải thích chuyển động của các thiên thể. P-tô-lê-mê cho rằng Trái Đất là trung tâm của Vũ Trụ. Vũ Trụ bị giới hạn bởi một mặt cầu chứa các ngôi sao cố định, mặt cầu quay xung quanh một trục qua tâm Trái Đất. Mặt Trời, Mặt Trăng và các hành tinh khác quay xung quanh Trái Đất. Mô hình địa tâm không thể hiện đúng bản chất của Vũ Trụ nhưng lại phù hợp với hiện tượng quay nhìn thấy của bầu trời (nhật động – sự chuyển động không có thật của Mặt Trời trong một ngày từ đông sang tây, mà thật ra là do Trái Đất tự quay quanh trục từ tây sang đông) và phù hợp với giáo lý nhà thờ, nên thuyết này đã chi phối nền thiên văn học châu Âu suốt 14 thế kỉ, mãi tới thời kì Phục hưng mới bị đánh đổ bởi thuyết nhật tâm của Cô-péc-níc. - Mô hình Vũ Trụ nhật tâm: Vào cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI, uy tín của nhà thờ ở châu Âu giảm sút. Sự phát triển của khoa học đòi hỏi con người phải biết vị trí của mình trong Vũ Trụ. Mô hình Vũ Trụ nhật tâm của Côpécníc (1473 – 1543) đã ra đời vào năm 1543, trong đó ông khẳng định: Mặt Trời nằm yên ở trung tâm Vũ Trụ; các hành tinh chuyển động quanh Mặt Trời theo quỹ đạo tròn; Trái Đất quay quanh trục trong khi quay quanh Mặt Trời. Mô hình của Cô-péc-níc đã mô tả đúng về hệ Mặt Trời và dựa vào đó người ta có thể dễ dàng giải thích các đặc điểm chuyển động nhìn thấy của các thiên thể, như hiện tượng nhật động... Mô hình Vũ Trụ nhật tâm đánh dấu bước ngoặt trong nhận thức của con người về Vũ Trụ và nó được coi là cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật lần thứ nhất của loài người. (Nguồn: Địa lí tự nhiên đại cương, tập 1 – Nguyễn Trọng Hiếu, Phùng Ngọc Đĩnh, NXB Sư phạm, H, 2003)

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 08/04/2024 0 bình luận

Căn cứ vào bảng số liệu sau (trang 26 SGK – nâng cao), nhận xét những đặc điểm của hai nhóm hành tinh: nhóm hành tinh kiểu Mộc tinh và nhóm hành tinh kiểu Trái Đất Trả lời * Nhóm hành tinh kiểu Trái Đất: - Bao gồm bốn hành tinh: Thủy tinh, Kim tinh, Trái Đất, Hỏa tinh. Khoảng cách trung bình đến Mặt Trời từ 59,2 – 214 triệu km. - Có bán kính Xích đạo và khối lượng nhỏ so với Trái Đất. - Thời gian tự quay quanh trục dài (từ 23h56 – 58 ngày), nhưng thời gian chuyển động một vòng quanh Mặt Trời ngắn (từ 88 ngày – 686,98 ngày). - Số vệ tinh ít: chỉ có ba vệ tinh, trong đó Trái Đất có một và Hỏa tinh có hai, còn Thủy tỉnh và Kim tinh không có vệ tinh nào. * Nhóm hành tinh kiểu Mộc tinh: - Bao gồm bốn hành tinh: Mộc tinh, Thổ tinh, Thiên Vương tinh, Hải Vương tinh. Khoảng cách trung bình đến Mặt Trời từ 776 triệu km – 4.484 triệu km. - Có bán kính Xích đạo và khối lượng rất lớn, gấp nhiều lần so với Trái Đất. - Thời gian tự quay quanh trục ngắn (chỉ từ 8h50' – 17h15), nhưng thời gian chuyển động một vòng quanh Mặt Trời rất dài (từ 4.332,59 ngày – 60.188 ngày). - Số vệ tinh nhiều: có tất cả 56 vệ tinh, trong đó Thổ tinh có nhiều vệ tinh nhất (19 vệ tinh).

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 08/04/2024 0 bình luận

 Hãy tóm tắt học thuyết Big Bang về sự hình thành Vũ Trụ. - Theo học thuyết Bic Bang, Vũ Trụ được hình thành cách đây 15 tỷ năm sau một “vụ nổ lớn” của một “nguyên tử nguyên thủy”. Đó là nguyên tử mà vật chất bị nén ép trong một không gian nhỏ bé với mật độ rất đậm đặc và nhiệt độ cực kì cao. – Từ trạng thái không ổn định đó, vụ nổ xảy ra và làm tung ra các đám bụi khí khổng lồ trong không gian. – Rất lâu sau, dưới tác động của lực hấp dẫn, các đám bụi khí tụ tập lại và dần dần hình thành các ngôi sao, thiên hà của Vũ Trụ.

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 07/04/2024 0 bình luận

Các tập bản đồ (Atlat) đầu tiên trên thế giới Cuốn sách đầu tiên mang tên “Atlat” được phát hành năm 1595. Trước khi phát minh ra máy in, tất cả những tấm bản đồ đều được làm bằng tay, vì vậy rất đắt. Năm 1477, một bản in bằng tiếng Latinh của cuốn Geographic của P-tô-lê-mê đã được phát hành tại Bologne, sau đó rất nhiều cuốn khác cũng được in. Năm 1570, một người Flamand tên là Abraham Ortelius đã cho ra mắt cuốn “Theatre du monde” (cảnh quan thế giới), đó mới chính là cuốn Atlat thực sự đầu tiên. Tập sách của ông được phát hành theo một trình tự logic: bản đồ thế giới, bản đồ châu lục, sau đó là bản đồ các nước. Cũng thời kì này, một nhà lập bản đồ khác người Flamand tên là Gerard Mercato cũng đã soạn một tập sách tương tự và việc phát hành nó trải qua giai đoạn. Tác phẩm trọn vẹn cuối cùng đã ra mắt độc giả-vào năm 1595, một năm sau khi tác giả mất. Cuốn sách này có nhan đề là Atlat (tức là suy ngẫm Vũ Trụ nhiều học trên phương diện thế giới và hình dáng cấu trúc của nó. Trên tập bản đồ này có in hình vị thần At-lát vác quả Địa Cầu trên vai (trong thần thoại Hy Lạp, Atlat là con vị thần Titang Đapê và là anh em ruột với thần Prômêtê, người đã đem ngọn lửa cho loài người. Do thần Atlát chống lại Dớt, vị thần chúa tể của thế giới, nên đã bị trừng phạt phải giơ vai gánh đỡ cả bầu trời). Tất cả các tập bản đồ in sau này, tuy bìa không vẽ tượng thần Atlát nữa, nhưng theo thói quen, người ta vẫn gọi chung là Atlát (kể cả tập tranh ảnh của một số môn khoa học khác, như Sinh học...). (Tổng hợp từ Trái Đất này là của chúng mình – Lê Huy Hòa, NXB ĐHQG Hà Nội, 2001 và Sổ tay thuật ngữ địa lí – Nguyễn Dược, Nguyễn Trung Hải, NXB Giáo dục, 2006)

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 07/04/2024 0 bình luận

Thành quả của hệ thống thông tin địa lý (GIS) đã được ứng dụng trong sản xuất và đời sống như thế nào? Thành quả của GIS được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất và đời sống con người: - Các nhà khoa học về môi trường dùng GIS để theo dõi và quản lý trạng thái môi trường. - Các nhà quy hoạch dùng GIS để đưa ra phương án quy hoạch hợp lý, điều chỉnh phương án quy hoạch nhanh chóng. - Các nhà kinh doanh dùng GIS để quản lí hệ thống sản xuấ, quản lí khách hàng, dịch vụ của mình. - Trong giáo dục GIS được sử dụng rộng rãi để nghiên cứu và học tập, nhất là trong lĩnh vực địa lý.

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 07/04/2024 0 bình luận

Khả năng phản ánh của kí hiệu bản đồ Kí hiệu bản đồ gồm có: kí hiệu điểm (biểu hiện các đối tượng phân bố theo điểm; loại kí hiệu này thường có dạng hình học, dạng chữ hoặc dạng tượng hình), kí hiệu tuyến (thể hiện các đối tượng dạng tuyến như: địa giới, giao thông, sông ngòi, đường dây tải điện...) và kí hiệu diện tích (thể hiện các đối tượng phân bố theo diện như: đất trồng, rừng, đồng cỏ chăn nuôi...). Trong đó các dạng kí hiệu được sử dụng rất đa dạng với nhiều đặc tính khác nhau nhằm phản ánh những đặc tính chất lượng và số lượng của hiện tượng. Các đặc tính đó là: dạng kí hiệu, kích thước kí hiệu, cấu trúc kí hiệu, độ sáng, màu sắc kí hiệu… Thông qua một ký hiệu, ta nhận biết được vị trí của hiện tượng, loại hiện tượng, quy mô của nó: kích thước của kí hiệu cho ta biết đặc tính số lượng của hiện tượng. Có thể biết được cấp phân vị của hiện tượng qua cấu trúc bên trong của kí hiệu, theo độ sáng hay màu sắc. Có thể vẽ thêm một nét phụ theo dạng chung (một nét, nét đứt quãng, hai nét kề nhau hay thay đổi độ đậm của nét vẽ) ta có thể biểu hiện cả tính thời gian của hiện tượng (xảy ra trên 100 năm, 50 năm trở lại hoặc đang tồn tại, đang hủy diệt hoặc đã mất hẳn...).

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 07/04/2024 0 bình luận

 Phép chiếu bản đồ, lưới bản đồ và sai số trên bản đồ. - Muốn vẽ bản đồ địa lí trước hết phải có lưới địa lí (kinh tuyến, vĩ tuyến) trên bản vẽ, sau đó dựa vào dạng lưới để chuyển các nội dung cần thiết. Phương pháp chiếu hình kinh tuyến và vĩ tuyến lên mặt phẳng gọi là phép chiếu bản đồ. Nhiệm vụ của phép chiếu bản đồ là tìm ra mối quan hệ giữa mặt chiếu quả Địa Cầu với mặt biểu hiện là mặt phẳng, tức là giữa tọa độ địa lí của quả Địa Cầu và tọa độ vuông góc của mặt phẳng. Biểu hiện của lưới kinh tuyến và vĩ tuyến đó trên bản đồ theo một phép chiếu nào đó được gọi là lưới chiếu bản đồ hay lưới bản đồ. Lưới bản đồ là những đường tọa độ cho phép xác định vị trí của một điểm bất kì trên bản đồ. - Trái Đất có dạng hình cầu, không thể bổ dọc (hay bổ ngang) mặt cầu rồi trải thành mặt phẳng mà không có chỗ hở. Nếu bổ dọc theo kinh tuyến thành từng múi một rồi lấy đường Xích đạo làm trục ngang ghép các múi lại với nhau theo trình tự trên mặt phẳng thì từ Xích đạo về hai cực ta thấy độ hở cứ lớn dần. Còn nếu bổ theo đại vĩ tuyến, rồi dọc theo một kinh tuyến nào đó làm trục đứng, ta ghép các đại đó lên mặt phẳng cũng theo trình tự kề nhau, ta thấy rằng từ kinh tuyến về hai phía độ hở cũng lớn dần dọc theo các vĩ tuyến. Việc biểu hiện các đối tượng và hiện tượng địa lí, kể cả các kinh, vĩ tuyến trên bản đồ đòi hỏi phải liên tục, không có chỗ hở, không có chỗ chồng lên nhau. Muốn đạt điều đó rõ ràng là phải kéo căng các múi hoặc đai và ghép liền nhau lại. Chính vì vậy ở những chỗ kéo căng ra đều có sai số trong biểu hiện. (Nguồn: Bản đồ học – Ngô Đạt Tam, NXB Giáo dục, 1986)

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 07/04/2024 0 bình luận

Mặc dù khổ cực, khó khăn bởi bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ “làng bị giặc đốt, cháy tàn cháy lụi” nhưng người bà vẫn vững lòng, kiên cường và dặn dò cháu, lời dặn của bà giản dị, mộc mạc thể hiện tấm lòng cao cả, đầy sự hi sinh: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố  Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên” - Bà là chỗ dựa cho cháu, là điểm tựa cho các con yên tâm công tác hơn thế bà là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến và góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến cho cả dân tộc. Tình cảm của bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc.  - Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể ở đoạn trên, tác giả đã chuyển thành hình ảnh ngọn lửa trong lòng bà, ngọn lửa luôn ủ sẵn và không bao giờ tắt: Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhenn Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng… - Bếp lửa trong thơ Bằng Việt không chỉ được nhóm bằng củi, bằng rơm mà còn được nhóm bằng lòng yêu thương “ấp ủ” sức sống mãnh liệt và niềm tin dai dẳng, bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm mà thời thơ ấu của cháu quấn quýt bên bà, ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương mà bà dành cho cháu. - Cùng với hình ảnh “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “sớm - chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống kiên định của bà. Tác giả sử dụng điệp ngữ - ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động và tự hào. =>Từ hình ảnh bếp lửa đến ngọn lửa với ý nghĩa khái quát, bà không chỉ là người nhó m lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa- ngọn lửa của sự sống, niềm hy vọng cho thế hệ mai sau. * Suy nghĩ của người cháu về người bà và bếpp lửa - Tần tảo, chịu thương, chịu khó, bà hi sinh cả một đời cho cháu cho con: Lận đậnn đời bà biết mấy nắng mưa Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm. - Từ bếp lửa quen thuộc, bình dị người cháu nhận ra bao điều kì diệu và thiêng liêng từ ngọn lửa từ bàn tay bà với bao yêu thương trìu mến “ấp iu nồng đượm” đã nuôi lớn cháu đến ngày hôm nay. - Các từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm” và từ láy tượng hình “lận đận” cùng hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” đã cho thấy sự gian nan, vất vả, đức hi sinh và sự chịu thương chịu khó của bà. Tình thương yêu mà tác giả dành cho bà giản dị, chân thành đến từng câu chữ được thật sâu sắc và trìu mến biết bao! - Suốt đời bà luôn chăm sóc, lo lắng cho con cho cháu cả về vật chất lẫn tinh thần để cháu lớn lên. - Điệp từ nhóm được nhắc đi nhắc lại đã gợi nhiều liên tưởng, bà nhóm lên tình yêu thương, sự san sẻ tình làng nghĩa xóm và nhóm lên những hi vọng, sự ấm áp cho cuộc đời thơ bé của tác giả. Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vuii Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ Ôi, kì lạ v à thiêng liêng – bếp lửa! Bà đã làm công việc khởi đầu của một ngày: nhóm bếp lửa mỗi sớm mai và bà nhóm lửa cho hôm qua, hôm nay và cả ngày mai; cho con cho cháu và cho tất cả mọi người. Bếp lửa vì thế mà trở nên thiêng liêng, lạ kì! * Nỗi nhớ bà, nhớ quê hương khôn nguôi và da diết - Đứa cháu năm xưa được dưỡng nuôi từ ngọn lửa tảo tần, từ tình thương khoai sắn ngọt bùi của bà nay đã lớn khôn, trưởng thành, chắp cánh bay xa tới những khung trời rộng lớn; Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu, Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, Nhưng vẫn chẳng bao giờ quên nhắc nhở: - Sớm mai này bà nhóm bếp lên chư a? Dù ở đâu, làm gì, bây giờ và mãi mãi mai sau cháu không thể quên bà và hình ảnh bếp lửa. Ngọn lửa và bà đã sưởi cháu trong cái buốt giá của nước Nga khi cháu xa nhà. “Khói trăm tàu, lửa trăm nhà” sẽ nhắc nhở cháu luôn nhớ về quê hương, tổ quốc và quá khứ dù đó là những ngày vất vả, gian lao. Kết bài: Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại chúng ta sẽ thấy ngay hình ảnh người bà bên bếp lửa hồng với dáng bà lặng lẽ, tần tảo, chịu thương chịu khó. Hình ảnh bếp lửa- ngọn lửa trong bà là biểu tượng cho gia đình, quê hương và đất nước, hình ảnh luôn động viên, tiếp sức cho con cháu trên mọi chặng đường cho dù đó là con đường gian khó nhất. Qua đây, Bằng Việt không chỉ khơi dậy kỉ niệm tuổi thơ cho bất cứ ai được sống trong vòng tay của bà mà còn gửi gắm thông điệp về truyền thống uống nước nhớ nguồn cho thế hệ mai sau. Đọc tiếp: Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa phần 1

Đọc tiếp
Bởi Học văn cô Hà Huyền | 31/03/2024 0 bình luận

Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ, từ đó nên cảm nhận của em về tình bà cháu và tình quê hương, đất nước Mở bài. Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm Bếp lửa. Giới thiệu vấn đề cần nghị luận Bếp lửa là tác phẩm nổi tiếng của đời thơ Bằng Việt, một trong những bài thơ đi cùng năm tháng với nhiều thế hệ người Việt đặc biệt những ai có thời thơ ấu bên bà như tác giả. Bài thơ được khơi nguồn từ hình ảnh bếp lửa, gợi những kỉ niệm về người bà, về tuổi thơ và tình bà cháu, tình yêu quê hương đất nước. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.             Thân bài. Cần đạt được các nội dung sau: * Mạch cảm xúc và hình ảnh bếp lửa Bài thơ được sáng tác năm 1963 khi Bằng Việt đang du học ở Liên Xô. Bài thơ là lời của tác giả nhớ về bà với những năm tháng thơ ấu đầy kỉ niệm bên bà. Với mạch cảm xúc rất tự nhiên, đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Hình ảnh bà bên bếp lửa với bao gian khó, vất vả nhưng bà đã dành cho cháu tất cả tình yêu thương trìu mến. Nay cháu đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý, lớn lao của bà. Cuối cùng cháu muốn gửi về bà, về quê hương, đất nước lòng trân trọng, kính yêu và biết ơn sâu sắc. *Hình ảnh bếp lửa luôn gắn với hình ảnh bà Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa. - Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần đã trở thành điệp khúc mở đầu cho bài thơ. Với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” là dấu ấn không bao giờ phai trong tâm trí tác giả. Hình ảnh bếp lửa ấm áp giữa cái lành lạnh của sương sớm, thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu nồng đượm” của bà kính yêu. Hơi ấm của ngọn lửa “chờn vờn” quyện hòa với hơi ấm của tình bà khiến đứa cháu xa nhà không thể nguôi ngoai nỗi niềm nhớ bà và xúc động mỗi khi hình ảnh bếp lửa hiện về trong tâm tưởng: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Sự nhớ thương về bà được người cháu bộc lộ trực tiếp và giản dị, đằng sau sự giản dị ấy là tất cả tấm lòng một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn lam lũ của bà. - Từ hình ảnh bếp lửa và người bà tảo tần, lam lũ bỗng làm sống lại cả một thời thơ ấu trong lòng Bằng Việt: Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu. Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn cay. - Cái nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã khiến hơn hai triệu người dân Việt Nam phải chết vì chính sách cai trị man rợ, tàn độc của bọn giặc Nhật, Pháp. (đói mòn đói mỏi) Tuổi thơ của tác giả đã nhuốm bóng đen ghê rợn của nạn đói mà có lẽ cả cuộc đời tác giả không bao giờ quên được. Cảnh nghèo đói đã ám ảnh trong văn chương Việt Nam một thời đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tổng kết trong một câu thơ đầy đau đớn: “Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ” - Hình ảnh “khô rạc ngựa gầy” cũng phần nào diễn tả được hoàn cảnh khốn khổ, thiếu thốn của gia đình tác giả trong bối cảnh 1945. -Ấn tượng nhất đối với cháu trong những ngày tháng đói khổ là mùi khói bếp của bà - mùi khói hun nhèm mắt cháu, mà “nghĩ lại sống mũi vẫn còn cay”. Cái cay vì khói bếp khi cháu bốn tuổi là cái cay bởi xúc động khi cháu nhớ về người bà kính yêu. Quá khứ và hiện tại đồng hiện trên những dòng thơ cho thấy, mùi khói bếp của bà đã làm lay động cả thế chất và tâm hồn cháu. - Nhớ về kỉ niệm là nhớ về bếp lửa “Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa” tám năm cháu nhận được sự yêu thương, bao bọc, nuôi dưỡng trong vòng tay ấm áp của bà, tám năm ấy khó khăn, vất vả nhưng cháu luôn nhận được sự chở che của bà. Nhớ nhất là hình ảnh bà bên bếp lửa mỗi sớm mỗi chiều: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Một mình bà ở nhà bao gian khó lo toan, bà vừa đảm nhiệm làm cha, vừa làm mẹ vừa làm bà nhưng bà vẫn vững lòng và làm trọn những vai đó cho người cháu bé nhỏ của mình: “bà bảo cháu nghe - Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”. Bên bếp lửa bà hay kể chuyện những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, truyền thống hiếu học và những đau thương mất mát của toàn dân tộc. - Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là nơi sưởi ấm trái tim người cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú khi gọi hè: Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế! Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà Kêu chi hoài trên những cánh đồng xaa? Tiếng chim tu hú trong những câu thơ của Bằng Việt là tiếng chim quen thuộc gợi nhớ về người bà, những năm tháng mà tác giả được sống trong sự yêu thương của bà. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người cháu trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong về tuổi thơ. Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà – Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa? Câu hỏi không có câu trả lời đã tạo nên sự xót xa, vắng vẻ, côi cút khi cháu nghĩ về người bà kính yêu của mình. => Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương. Và tất cả đều là sự bộc bạch của cháu dành cho người bà kính yêu. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ nhuốm màu thương nhớ về những hoài niệm ấm áp mà bà đã dành cho tác giả. Đọc tiếp: Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa phần 2

Đọc tiếp
zalo

Đăng ký sách

Mật khẩu của bạn được mã hóa. Ngoại trừ bạn, không ai có thể biết được mật khẩu của bạn.

Đăng ký khóa học

messenger